BVR&MT – Theo Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Quốc Toản, sự phát triển của ngành chế biến nông sản chưa tương xứng với tiềm năng, còn bộc lộ những tồn tại, nút thắt trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp…
Thời gian qua, công nghiệp chế biến nông sản Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Từ năm 2013-2018, công nghiệp chế biến nông sản cả nước đã có bước phát triển mạnh trên cả quy mô và mức độ hiện đại; tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng hàng năm đạt khoảng 5-7%. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng mạnh, bình quân tăng khoảng 8-10%/năm, năm 2018 đạt mức kỷ lục 40,02 tỷ USD.
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, hiện nay, Việt Nam đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản có công suất thiết kế bảo đảm chế biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu nông sản/năm, có trên 7.500 doanh nghiệp quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu; sản phẩm chế biến nông sản Việt Nam đã xuất khẩu tới trên 180 nước và vùng lãnh thổ, kể cả thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản…
Ngoài ra còn có hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ, hộ gia đình làm nhiệm vụ sơ chế, chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển thị trường nông sản, sự phát triển của ngành chế biến nông sản chưa tương xứng với tiềm năng, còn bộc lộ những tồn tại, nút thắt trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, như: Năng lực chế biến một số ngành hàng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất nguyên liệu và thị trường tiêu thụ; công nghệ chế biến nông sản chưa cao, chủ yếu là sản phẩm thô, tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp (tính chung 15-20%), chủng loại chưa phong phú..
Theo ông Toản, để nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị của ngành chế biến nông sản, các địa phương cần tổ chức sản xuất nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến, triển khai có hiệu quả Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Rà soát quy hoạch sử dụng đất, cơ cấu sản xuất cây trồng vật nuôi, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng để xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung bảo đảm đủ nguyên liệu cho cơ sở chế biến.
Bên cạnh đó, tăng cường ứng dụng, chuyển giao tiến bộ, khoa học công nghệ vào chế biến, bảo quản nông sản, sử dụng hiệu quả nguồn lực từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, hỗ trợ các dự án nâng cao năng lực chế biến nông sản; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về trình độ công nghệ chế biến, bảo quản nông sản để tiến tới hình thành thị trường khoa học công nghệ trong lĩnh vực này; nghiên cứu, áp dụng công nghệ cao, hiện đại vào sản xuất.
Việc các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết như EVFTA, CPTPP, nông sản thực phẩm Việt được kỳ vọng sẽ có điều kiện thuận lợi để hội nhập, chinh phục các thị trường khó tính nhất; đồng thời ngành nông nghiệp sẽ có cơ hội thu hút vốn từ các thị trường mới chưa bao giờ đầu tư vào Việt Nam. Thực tế, trong 3 năm qua, số lượng doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đã tăng gấp 3 lần. Chỉ riêng năm 2018, hơn 10.000 tỷ đồng đã được đầu tư vào nông nghiệp.
Ông Phan Thế Anh, Phó Cục trưởng Cục Công tác phía Nam (Bộ Công Thương) cho biết, hiện nay, với việc hàng loạt các FTA thế hệ mới bắt đầu có hiệu lực cũng như sự phát triển năng động của nền kinh tế, ngành công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển vượt bậc.
Theo nhận định của các chuyên gia, năm 2019 được kỳ vọng sẽ là năm chuyển động mạnh mẽ của các dòng vốn vào lĩnh vực chế biến nông sản để Việt Nam có những bước tiến mạnh mẽ. Trong đó, việc thu hút đầu tư phát triển sản xuất, làm chủ công nghệ tiên tiến sẽ là mấu chốt căn bản để thúc đẩy sự phát triển
Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng Giám đốc Công ty Vina T&T, doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm xuất khẩu sản phẩm rau, quả sang thị trường Mỹ cho biết, để tăng cường lượng tiêu thụ, thúc đẩy thương mại hàng hóa nông sản trong xu thế hiện nay, quan trọng nhất vẫn là thông tin thị trường. Đây là yếu tố cần được quan tâm đầu tiên khi doanh nghiệp có kế hoạch xuất khẩu nông sản đến thị trường Mỹ nói riêng và các nước khác trên thế giới nói chung. Bởi vì tiêu chuẩn nhập khẩu hàng hóa của các nước ở từng khu vực là khác nhau và nhất là hàng hóa xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế ở các nước phát triển thì càng phải cần nghiên cứu kỹ về nhu cầu, tiêu chuẩn, hoạt động của thị trường của các nước.
Riêng thị trường Mỹ khắt khe về chất lượng và yêu cầu sản phẩm nhập khẩu vào phải đạt những tiêu chuẩn nhất định và tuân theo đúng thủ tục nhập khẩu. Cụ thể, Mỹ tăng cường kiểm soát kỹ thuật thương mại, cơ chế kiểm dịch thông qua các tiêu chuẩn như GMP, ISO, HACCP, an toàn vệ sinh thực phẩm… trong sản xuất và chế biến mặt hàng nông sản trước khi đưa vào thị trường Mỹ. Muốn đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật đối với hàng nông sản thì phải quan tâm từ khâu chọn giống, kỹ thuật chăm sóc, kỹ thuật thu hoạch đến xử lý sau thu hoạch, bảo quản, vận chuyển…
Ngoài ra, Mỹ yêu cầu thủ tục bao gồm nhiều giấy tờ như: Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, giấy nhập khẩu hải quan, hóa đơn thương mại, danh mục kiện hàng (nếu có), giấy tờ khác theo yêu cầu cụ thể của chính quyền liên bang hay địa phương nhập hàng. Vì thế, khi các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa nắm rõ hệ thống quy định về pháp luật của Mỹ thường cảm thấy khó nhập khẩu hàng vào thị trường này.
https://baovemoitruong.org.vn/