Món ăn từ nòng nọc

BVR&MT – Từ chỗ chỉ là món ăn thuần túy biểu thị nền kinh tế tự cung tự cấp, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, trải qua thời gian, món ăn ấy dần trở thành nét văn hóa đặc sắc của cư dân bản địa Tây Nguyên. Đó là món ăn được làm từ ấu trùng loài lưỡng thê của người K’Ho, một tộc dân sinh sống trên cao nguyên trung phần Việt Nam.

Đặc sắc canh nòng nọc

Qua thời gian, nòng nọc trở thành mốn ăn mang đậm nét văn hóa đặc sắc của cư dân bản địa Tây Nguyên.

Tiết trời ở Tây Nguyên thời điểm này rất khó đoán định. Cứ chắc mẩm trời nắng to, rồi đi ra khỏi nhà, thể nào cũng lĩnh trọn trận mưa rừng tối tăm mặt mũi. Thế nên, việc quyết định theo chân một nhóm người K’Ho, ở xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đi xúc nòng nọc của tôi xem ra có phần lừng khừng.

Thấy vậy, chị Ka Phin giục: “Suy nghĩ dứt điểm đi! Giờ trời đang sửng nắng. Chần chừ mãi nó trút nước xuống thì hết đường đi xúc nòng nọc!”. Thế là tôi có một trải nghiệm khá thú vị xung quanh con nòng nọc.

Sau khi luồn lách qua rất nhiều con đường đất sũng ướt giữa bạt ngàn rẫy đồi cà phê bằng xe máy, chúng tôi tấp vào chòi canh rẫy của người quen, vì không thể di chuyển tiếp bằng phương tiện này, gửi xe ở đấy và chuyển sang cuốc bộ, cách duy nhất để thâm nhập địa bàn cư trú của loài lưỡng thê. “Ngoài ao, hồ, suối… là môi sinh chủ yếu của loài lưỡng thê, cứ nhắm những nơi thấp trũng, nước đọng thành từng vũng mà kiếm, thể nào cũng bắt được nòng nọc”, anh K’Hùng vừa băng băng về phía có tiếng suối đang chảy róc rách vừa hào hển nói.

Trong khi anh K’Hùng và anh K’Tân đang tìm cách buộc 2 đầu mảnh lưới vào 2 cây gỗ nhỏ (2 cây gỗ này dùng để làm điểm tì tay cho việc kéo lưới), thì chị Ka Phin đã thi triển kỹ năng xúc nòng nọc bằng rổ. Buộc chắc chiếc giỏ nhỏ được đan rất kỳ công bên hông, chị Ka Phin thoăn thoắt rảo bước, hai tay liên tục chao đưa chiếc rổ vục sát mặt bùn để bắt nòng nọc. Sau mỗi lần chao đưa rổ, chị Ka Phin lại dừng bước, bắt những con nòng nọc từ trong rổ bỏ vào giỏ. Tất nhiên, chị Ka Phin vẫn không quên giải thích cho tôi hiểu thêm về nòng nọc.

Theo chị Ka Phin, nòng nọc có nhiều loại. Tuy vậy, người K’Ho chỉ sử dụng 2 loại chính để làm thực phẩm, là nòng nọc sinh sống ở khe suối và nòng nọc sinh sống ở đồng ruộng. Mỗi loại trên có những đặc trưng riêng. Thời điểm xuất hiện của chúng cũng rất khác nhau. Nòng nọc sinh sống ở đồng ruộng có thân hình bằng hạt đậu đỏ. Nòng nọc ruộng chủ yếu xuất hiện vào đầu mùa mưa, khoảng tháng 6 đến tháng 7 âm lịch. Nòng nọc sống ở khe suối có thân hình bằng ngón tay cái. Nòng nọc suối chủ yếu xuất hiện vào cuối mùa khô, khoảng tháng 10 đến tháng 11 âm lịch. “Đối với nòng nọc sống ở ruộng nước, việc xúc bắt dễ dàng hơn rất nhiều so với việc xúc bắt nòng nọc sống ở suối. Đặc biệt, vào những ngày trời nắng nhiều, nước ruộng đục lại nóng, buộc loại này phải hoạt động liên tục, nhờ đó mà người đi xúc dễ dàng phát hiện và bắt được nhiều nòng nọc hơn. Một nguyên nhân nữa, nước ở ruộng cạn và không chảy xiết như nước ở suối”, chị Ka Phin cho biết.

Mới vừa kéo xong một vài mẻ lưới ở cái ao bên cạnh, anh K’Hùng và anh K’Tân tạm dừng tay, góp chuyện: “Nhưng khó kiếm nhất vẫn là loại nòng nọc sinh sống ở các con suối trong rừng sâu. Nòng nọc ở đấy có những con to bằng ngón tay cái. Bắt được nòng nọc loại này về chế biến thành món ăn, chả khác nào ăn món sườn non béo ngậy”. Bà Ka Phêm, một người biết xúc nòng nọc từ thuở còn lẫm chẫm, giờ đã gần bước qua tuổi 60 cho rằng, muốn bắt được nòng nọc suối, nhất thiết phải có tuyệt kỹ. Tuyệt kỹ đầu tiên phải kể đến là kỹ năng phát hiện nơi có nhiều nòng nọc trú ẩn. Một khi phát hiện nơi có nòng nọc trú ẩn, người đi bắt dùng đất đá làm đập ở phía trên để ngăn dòng chảy. Chờ cho nước rút bớt, người đi bắt mới dùng rổ xúc nòng nọc. Tiếp theo mới đòi hỏi kỹ năng xúc nòng nọc. “Công việc bắt nòng nọc suối có cái khó là địa hình nhiều hốc đá. Mặc dù dòng chảy lúc này đã được con đập ngăn làm giảm bớt nhưng thấy mặt nước có động lập tức nòng nọc lẩn dưới hốc đá và bùn để trốn. Vì vậy, nó đòi hỏi rất nhiều kỹ năng thì mới bắt được nòng nọc loại này”, bà Ka Phêm chỉ rõ.

Nòng nọc loại to bằng ngón tay trỏ (nòng nọc ở suối) sau khi bắt về được người K’Ho dùng dao lam mổ bỏ ruột rồi rửa sạch với nước muối. Nòng nọc loại nhỏ (nòng nọc ở ruộng) thì người K’Ho không mổ bụng, chỉ ngâm với muối rồi rửa sạch bằng nước. Sau đó, người K’Ho để cho ráo nước, rồi mang đi chế biến thành các món ăn yêu thích. Thường thì từ nòng nọc, người K’Ho chế biến ra ra nhiều món ăn đơn giản như: kho, xào, nấu canh… Trong số những món ăn kể trên, canh nòng nọc là món phổ biến nhất. Nguyên liệu để nấu canh nòng nọc cũng hết sức đơn giản gồm: nòng nọc, lá hẹ hoặc lá hành tăm, ớt, bột ngọt và một số gia vị khác. Nòng nọc đem ướp gia vị cho ngấm. Hành tăm hoặc lá hẹ được rửa sạch sẵn. Ớt xanh để nguyên trái. Trong lúc chờ đợi nòng nọc ngấm gia vị, người nấu lấy một lượng nước vừa phải vào xoong, tùy theo số lượng nòng nọc ít hay nhiều, rồi bắc lên bếp và nổi lửa. Trông chừng thấy nồi nước sủi tăm, tức gần sôi, người nấu mới thả nòng nọc đã ướp gia vị vào xoong, tiếp tục nổi lửa nấu cho tới chín, khuấy thật đều và múc ra thưởng thức. Trước đó, người nấu đã kịp bỏ lá hành tăm hoặc lá hẹ vào nồi canh cũng như nêm nếm các gia vị cho vừa miệng. “Món ăn chỉ đơn giản vậy đó! Nhưng vì số lượng bắt được ít và không phải lúc nào cũng có để bắt nên canh nòng nọc là đặc sản của người bản địa K’Ho”, anh K’Tân khẳng định.

Món ăn trở thành văn hóa

Người K’Ho coi việc đi bắt nòng nọc là một nét văn hóa.

Theo ông K’Tôn, việc đi bắt nòng nọc rồi đem về chế biến những món ăn của người K’Ho đã có từ rất lâu rồi. Nó xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm cái ăn hàng ngày, khi mà cuộc sống của người dân nơi đây chủ yếu còn tự cung tự cấp. Thế rồi, trải qua thời gian dài, người K’Ho giờ đây không những có của ăn mà còn có thêm của để, nhiều người đã xây cất được nhà lầu và mua sắm được xe hơi, thì việc đi xúc bắt nòng nọc vẫn tồn tại. Nó tồn tại như một khế ước văn hóa độc đáo của người dân bản địa. Do vậy, những người đến từ hệ sinh thái khác như người Kinh chúng ta, đừng lấy làm bất ngờ nếu chẳng may trên những nẻo đường rừng bất kỳ, chúng ta bắt gặp những người K’Ho giàu có, ở nhà lầu, đi xe hơi vẫn lội suối, băng rừng xúc nòng nọc. “Bởi, đây không đơn thuần là công việc kiếm thực phẩm, mà người K’Ho xem đó là một thú vui, một nét văn hóa”, ông K’Tôn lý giải.

Trước kia cũng như bây giờ, người K’Ho chẳng ai bảo ai nhưng tất cả đều ngầm hiểu và có cách hành xử rất văn minh, chỉ đánh bắt số lượng nòng nọc vừa đủ cho một bữa ăn trong ngày. Người K’Ho còn tự ý thức cao độ trong việc giữ gìn nguồn cung cấp nòng nọc, tuyệt đối tránh kiểu khai thác tận diệt. Vì vậy, nếu có đi săn bắt bố mẹ nòng nọc (ếch, ễnh ương, chẫu chuộc, nhái bén…), người K’Ho cũng chỉ kiếm đủ cơ số một bữa ăn. Người K’Ho hiểu rằng, tự sinh tất phải có tự dưỡng và ngược lại hủy hoại tự nhiên ắt đồng nghĩa với tự tiêu diệt. Chính nhờ chân lý giản đơn ấy, người K’Ho luôn tự biết cách giữ cho hệ sinh thái cân đối.

Canh nòng nọc là món ăn mang đậm dấu ấn của nền kinh tế dựa vào tự nhiên. Song, trong quan niệm của người K’Ho, món ăn ấy còn cao và xa hơn thế, trở thành một nét văn hóa, thể hiện nhân sinh quan sâu sắc ở người bản địa về lề lối ứng xử giữa con người với con người cũng như giữa con người với tự nhiên. Điều đó giải thích cho lý do vì sao khi cuộc sống đã dần trở nên khá giả, nhiều người K’Ho vẫn đổ ra những con suối, đồng ruộng để bắt nòng nọc về chế biến thành các món ăn yêu thích mỗi độ mùa nòng nọc sinh sôi.

Trịnh Chu