BVR&MT – Đó là đánh giá của GS. Finn Tarp, Giám đốc Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển thế giới tại Hội thảo công bố Báo cáo: “Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam: Kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn Việt Nam năm 2016 tại 12 tỉnh” được tổ ngày 07/11, tại Hà Nội.
Hội thảo do Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Viện Nghiên cứu Kinh tế phát triển thế giới của Trường Đại học Liên hợp quốc (UNU-WIDER) tổ chức với sự tham dự của TS. Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), GS. Finn Tarp – Trường Đại học Copenhagen – Giám đốc Viện Nghiên cứu Kinh tế phát triển thế giới của Trường Đại học Liên hợp quốc (UNU-WIDER), TS. Đào Quang Vinh – Viện trưởng, Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA) – chủ trì hội thảo, cùng đông đảo các chuyên gia, nhà nghiên cứu, các cơ quan thông tấn báo chí tại Hà Nội.
Theo đó, báo cáo “Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam: Kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn Việt Nam năm 2016 tại 12 tỉnh” được thực hiện dựa trên kết quả phân tích bộ dữ liệu thu thập được từ cuộc điều tra Tiếp cận nguồn lực hộ gia đình nông thôn Việt Nam năm 2014. Mẫu báo cáo dựa trên mẫu điều tra gồm 2.669 hộ gia đình tham gia điều tra năm 2016, tại 12 tỉnh gồm: Lào Cai, Phú Thọ, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Long An…
GS.Finn Tarp, Giám đốc Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển thế giới cho hay, kết quả điều tra phối hợp về đói nghèo và hạnh phúc cho thấy tỷ lệ nghèo đói tăng do thay đổi về cách phân loại khi Chính phủ Việt Nam đã áp dụng chuẩn nghèo mới, có những tiêu chuẩn đánh giá cao hơn, do đó tỷ lệ đói nghèo tăng lên. Đời sống của người dân nông thôn đã được cải thiện đáng kể, chất lượng dịch vụ y tế và vệ sinh môi trường được tăng lên, việc thu gom rác thải được cải thiện tích cực.
Đại diện nhóm nghiên cứu về đất đai, ông Thomas Markussen, Trường Đại học Copenhagen cho biết, trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm tăng cường quyền sở hữu đối với đất đai và khuyến khích đầu tư, nhưng vẫn có sự khác biệt rõ ràng giữa miền Bắc và miền Nam. Đồng thời, nghèo đói có mối tương quan chặt chẽ đối với tình trạng không có đất. Trong khi đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tác động tích cực đến việc lựa chọn cây trồng và đầu tư trên đất.
Về tiếp cận tín dụng, báo cáo cho thấy cách tiếp cận tín dụng chính thức là một công cụ quan trọng giúp xoá đói, giảm nghèo. Tuy vậy, các hộ nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất thì thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận với tín dụng. Theo khảo sát, có khoảng trên 28% hộ gia đình có ít nhất một khoản vay, trong khi có tới hơn 71% hộ không có khoản vay nào. Trong số 768 hộ gia đình có ít nhất 1 khoản vay, có 145 hộ có khoản vay thứ 2 và 34 hộ có khoản vay thứ 3. Ngoài ra, vẫn có sự chênh lệch giữa các vùng trong việc tiếp cận tín dụng, tỷ lệ hộ có các khoản vay mà có chủ hộ không biết đọc, biết viết tăng lên. Tỷ lệ hộ thiểu số tiếp cận tín dụng tăng lên, bao gồm cả tín dụng chính thức. Nhóm hộ nghèo nhất có sự gia tăng về tiếp cận tín dụng trong khi các hộ thuộc nhóm giàu thứ 2 lại giảm.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, hộ kinh doanh cá thể là một phần quan trọng đối với sinh kế tại khu vực nông thôn Việt Nam. Mặc dù, chiếm tỷ lệ không lớn trong thu nhập nhưng lại là nơi tiếp nhận nguồn lực đầu tư lớn. Thành công của hoạt động kinh doanh của các hộ có liên quan mật thiết với sự giàu có, trình độ giáo dục và yếu tố dân tộc của hộ. Tuy nhiên, hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ với ít lao động thường là hoạt động phi chính thức.
Trong khi đó, tình trạng di cư diễn ra khá phổ biến; trong đó, có các tỉnh có nhiều hộ có người di cư là Quảng Nam, Nghệ An, Đắk Lắk, Đăk Nông… và nơi đến của họ là Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Đắk Lắc. Người di cư thường là nam giới, thuộc các gia đình nghèo hơn trong cộng đồng.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, các hộ gia đình ở miền núi phía Bắc như Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu vẫn tiếp tục lạc hậu ở một số chỉ tiêu về phúc lợi. Nông dân ở các tỉnh phía Bắc ít theo xu hướng thương mại hơn các tỉnh phía Nam. Tăng trưởng kinh tế bền vững trong thập kỷ qua góp phần cải thiện đáng kể phúc lợi của người dân Việt Nam. Nhiều hộ nghèo nhận được sự hỗ trợ và dịch vụ của Chính phủ để giúp họ thoát khỏi tình trạng nghèo đói, đặc biệt là chính sách từ Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững 2016 – 2020. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch lớn về phúc lợi và việc tiếp cận các nguồn lực giữa các nhóm dân tộc.
Để đảm bảo những thành tựu về kinh tế của Việt Nam được phân bổ đồng đều, GS.Finn Tarp cho rằng, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam cần phải chú trọng hơn nữa việc thu hẹp khoảng cách này trong những năm tới; giải quyết những bất bình đẳng này để đảm bảo rằng nhóm hộ nghèo và dễ bị tổn thương nhất không bị bỏ lại phía sau tiếp tục là những vấn đề trọng tâm.
Hậu Thạch