BVR&MT – Trong điều kiện lặng gió, hướng gió quẩn, nhiệt độ cao, sương mù bao phủ thành phố, gần như không thể xuất hiện sự đóng góp ô nhiễm bụi (ngoại xâm) của các nhà máy nhiệt điện.
Trước những lo ngại liên quan đến việc các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là nguyên nhân gây ra ô nhiễm và bụi mịn tại Hà Nội thời gian qua, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết, thông tin này là không chính xác.
Theo EVN, các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn và các nhà máy nhiệt điện khác ở phía Bắc đều nằm ở khu vực phía Đông của thành phố Hà Nội với khoảng cách lớn từ 60-200km. Do đó, việc ảnh hưởng các nhà máy nhiệt điện này tới Thủ đô chỉ trong điều kiện gió bất lợi.
Cụ thể như gió thổi từ hướng Đông, Đông Nam, nhưng nếu với tốc độ gió mạnh thì gió Đông, Đông Nam cũng mang theo luồng không khí sạch từ biển vào, sẽ làm khả năng khuếch tán tốt và giảm tác động của luồng khí thải nhiệt điện bay từ hướng Đông, Đông Nam về Thủ đô.
Cũng theo thông tin từ Chi cục Bảo vệ Môi trường Hà Nội, các ngày Hà Nội ô nhiễm thì có điều kiện khí tượng không thuận lợi. Cụ thể: đêm và ngày không có mưa, lặng gió (tốc độ gió thấp từ 0,1-2m/s), hướng gió không cụ thể (gió quẩn).
Ban ngày trời nắng, nền nhiệt tăng cao về đêm trời dịu mát nhiệt độ giảm mạnh, sáng sớm luôn xuất hiện một lớp sương mù bao phủ toàn thành phố.
Điều này cho thấy rằng, việc ô nhiễm không khí tại Thủ đô do các nhà máy nhiệt điện phía Đông là không chính xác. Trong điều kiện lặng gió, hướng gió quẩn, nhiệt độ cao, sương mù bao phủ thành phố, gần như không thể xuất hiện sự đóng góp ô nhiễm bụi (ngoại xâm) của các nhà máy nhiệt điện từ phía Đông ở khoảng cách từ 60-200 km.
Hiện nay, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đang sở hữu và vận hành một số nhà máy nhiệt điện than; trong đó, có các nhà máy nhiệt điện tại miền Bắc cách từ 60-200 km về phía Đông của Hà Nội, các nhà máy nhiệt điện tại miền Nam cách Tp. Hồ Chí Minh từ 200-300 km.
Để đảm bảo giảm tối thiểu nồng độ bụi phát thải ra ngoài môi trường, tất cả các nhà máy nhiệt điện than của EVN (12/12 nhà máy) đã đầu tư và lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện (ESP) với hiệu suất xử lý bụi đạt trên 99,6%.
Hệ thống xử lý bụi tĩnh điện ESP (4 cực) được lắp đặt riêng cho mỗi tổ máy với nguyên lý hoạt động như sau: các hạt bụi tro được đưa qua các bản điện cực phóng ở trường cao thế được tích điện tích âm; đồng thời sẽ được các bản cực thu kim loại có điện cực dương hấp thụ và giữ lại tại bản cực này.
Các hạt bụi trên bản cực sẽ được rơi lắng xuống định kỳ bằng hệ thống búa gõ tạo rung (rapping system) và rơi xuống phễu thu tro ở phía dưới sàn của bộ lọc ESP và sẽ đưa đến silo chứa tro bằng hệ thống khí nén và được rót lên xe chuyên dụng để đến cơ sở tiêu thụ làm vật liệu xây dựng.
Công nghệ xử lý lọc bụi tĩnh điện của các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn đang sử dụng công nghệ hiện đại, hiệu suất khử cao không thua kém các nhà máy trong khu vực và thế giới, đáp ứng tốt các yêu cầu về môi trường.
Ngoài ra, các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn đều đã trang bị hệ thống quan trắc tự động liên tục (24/24h) các thông số ô nhiễm trong khí thải, nước thải. Các dữ liệu kết quả được truyền gửi online về các Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương và EVN để theo dõi kiểm tra.
Sau khi kiểm tra số liệu quan trắc nồng độ bụi phát thải trong các nhà máy nhiệt điện thì nồng độ bụi trong khí thải trong các ngày gần đây (từ 1/9/2019 đến 5/10/2019) đều ở mức thấp, đáp ứng QCVN 22:20009/BTNMT và tuân thủ theo Đánh giá tác động môi trường được duyệt.
Đồng thời, các số liệu kết quả trong thời gian gần đây đều tương đương với kết quả quan trắc phát thải nồng độ bụi trong các ngày cách đấy 3-6 tháng và không có dấu hiệu gia tăng nồng độ bụi phát thải.
EVN cho biết, trong quá trình thực hiện đầu tư các dự án nhà máy nhiệt điện, EVN đều đã thực hiện đánh giá tác động, phân tích mức độ ảnh hưởng của dự án đến môi trường xung quanh và được thể hiện trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường được Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt.
Nhằm đánh giá mức độ lan truyền bụi phát tán trong môi trường không khí, các báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã sử dụng mô hình tính toán AERMOD, CALPUFF,… được thế giới công nhận, áp dụng để mô phỏng khuếch tán nồng độ bụi trong không khí.
Để đánh giá các tác động tích lũy, cộng hưởng của các nhà máy nhiệt điện tới môi trường xung quanh, Bộ Công Thương cũng đã có báo cáo, nghiên cứu tác động môi trường tổng hợp của các trung tâm Điện lực Vĩnh Tân, Duyên Hải.
Mô hình tính toán CALPUFF đã được sử dụng đánh giá mức độ khuếch tán nồng độ bụi trong không khí.
Các kết quả mô hình đều cho thấy rằng, mức độ ảnh hưởng lớn nhất của nồng độ bụi (khoảng 30 mg/m3 đối với tổng bụi TSP và 10 mg/m3 bụi mịn PM10) thường xuất hiện ở khoảng cách nhà máy từ 2,6-2,8 km và giảm rất nhanh ở các khoảng cách xa hơn so với nhà máy. Tại khoảng cách từ 5m-10 km trở lên nồng độ bụi do tác động của nhà máy nhiệt điện gần như không còn ảnh hưởng…