BVR&MT – Chiều 14/6, Hội đồng thẩm định, do Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang chủ trì, bỏ phiếu nhất trí thông qua dự thảo Quy hoạch để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Quy hoạch lâm nghiệp quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là 1 trong 4 quy hoạch ngành quốc gia do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì thực hiện, bên cạnh Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thuỷ lợi; Quy hoạch hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá; Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050. Hội đồng thẩm định cho biết, dự thảo Quy hoạch được xây dựng từ năm 2020 đến nay đã qua nhiều lần lấy ý kiến, thẩm định. Cơ quan lập quy hoạch đã tiếp thu đầy đủ và giải trình nghiêm túc các ý kiến góp ý.
Mới đây, tại cuộc họp Hội đồng thẩm định Quy hoạch lâm nghiệp quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục nghiên cứu dự thảo Quy hoạch để Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần rà soát, bảo đảm chính xác số liệu về diện tích đất rừng, rừng của các địa phương; xác định rõ diện tích của từng loại rừng trên đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất và diện tích rừng trên đất khác (đất nương rãy, vườn đồi). Đồng thời, nghiên cứu, bổ sung giải pháp đối với rừng trên đất quốc phòng, an ninh và đối với cây ăn quả, cây lâu năm trồng xen kẽ trong rừng; rà soát, hoàn thiện lại cơ sở dữ liệu, hệ thống sơ đồ, bản đồ trong dự thảo Quy hoạch, bảo đảm thống nhất. Cần hạn chế tối đa việc điều chỉnh, đưa ra ngoài quy hoạch đối với diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ bởi rừng đang là lợi thế của Việt Nam, không chỉ tạo sinh kế cho người dân mà còn giúp bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên.
Quy hoạch lâm nghiệp quốc gia được xây dựng trong bối cảnh diện tích rừng tăng nhưng chất lượng của rừng chưa cao, nhất là rừng tự nhiên (8,7% rừng giàu, 24,8% rừng trung bình và 66,5% rừng nghèo). Năng suất rừng trồng còn thấp, chủ yếu là cung cấp gỗ nhỏ, chưa đáp ứng được đòi hỏi của ngành chế biến gỗ và xuất khẩu.
Trình độ công nghệ trong các lĩnh vực của ngành còn thấp; môi trường đầu tư nhiều rủi ro do chu kỳ sản xuất kinh doanh dài, chủ yếu là tại khu vực có điều kiện khó khăn, hạ tầng cơ sở, dịch vụ kém chất lượng. Tình trạng vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng như chặt phá, xâm lấn và khai thác rừng trái phép vẫn xảy ra ở một số địa phương.
Tiềm năng, lợi thế về các giá trị gián tiếp như đa dạng hệ sinh thái, đa dạng sinh học và nguồn gene của rừng chưa được phát huy. Nguyên nhân của tình trạng trên là do rừng phân bố trên phạm vi rộng, tập trung nhiều ở các vùng có điều kiện khó khăn, địa hình chia cắt phức tạp, cơ sở hạ tầng thấp kém.
Tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, thiên tai xảy ra thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ tới tài nguyên rừng và hoạt động lâm nghiệp. Nhận thức của xã hội về vai trò và các giá trị của rừng chưa đầy đủ. Nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư bảo vệ, phát triển rừng còn thấp so với yêu cầu, trong khi gặp nhiều khó khăn về huy động nguồn lực xã hội.
Theo dự thảo Quy hoạch, tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn quốc thời kỳ 2021-2030 là 15.848,5 nghìn ha, trong đó diện tích rừng và đất lâm nghiệp quy hoạch rừng đặc dụng chiếm 15,5%, rừng phòng hộ chiếm 33%, rừng sản xuất chiếm 51,5%.
Quy hoạch đặt mục tiêu duy trì tỉ lệ che phủ rừng toàn quốc ổn định từ 42% đến 43%, chú trọng nâng cao chất lượng rừng, nhất là rừng tự nhiên hiện có. Tốc độ tăng giá trị gia tăng sản xuất lâm nghiệp bình quân đạt 5,0-5,5%/năm. Trồng rừng sản xuất bình quân 238.000 ha/năm; trồng rừng phòng hộ và rừng đặc dụng bình quân 8.600 ha/năm. Phục hồi rừng tự nhiên bình quân 22.500 ha/năm; diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững đến năm 2030 đạt trên 1 triệu ha.
Giá trị xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản đạt 20 tỷ USD vào năm 2025 và 25 tỷ USD vào năm 2030. Giá trị tiêu thụ đồ gỗ và lâm sản trong nước đạt 5 tỷ USD vào năm 2025 và 6 tỷ USD vào năm 2030. Thu dịch vụ môi trường rừng tăng bình quân 5%/năm. Tổng thu dịch vụ môi trường rừng đạt 3.500 tỷ/năm giai đoạn 2021-2025 và 4.000 tỷ đồng giai đoạn 2026-2030.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2023, diện tích rừng cả nước đạt 14.860.309ha, trong đó rừng tự nhiên 10.129.751ha và rừng trồng 4.730.557ha; tỷ lệ che phủ toàn quốc đạt 42,02%. Cũng theo số liệu thống kê trong năm 2023, trên lĩnh vực trồng rừng, cả nước đã trồng được khoảng 250.000 ha rừng, đạt 102% kế hoạch năm 2023. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,02%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Tổng nguồn thu từ các loại dịch vụ môi trường rừng năm 2023 đạt 4.130,40 tỷ đồng.
Về xuất khẩu lâm sản, ước đạt 14,390 tỷ USD, giảm 15,8% so với năm 2022. Nguyên nhân sụt giảm do thị trường có nhiều biến động bất ổn, đồng thời, chịu ảnh hưởng từ xung đột chính trị Nga – Ukraine; người tiêu dùng tại thị trường Hoa Kỳ và EU đang thắt chặt chi tiêu đối với các sản phẩm không thiết yếu, trong đó có các sản phẩm gỗ. Tuy vậy, giá trị xuất siêu của lâm sản vẫn ước đạt 12,199 tỷ USD. Đáng chú ý, trong năm 2023, đánh dấu một cột mốc rất quan trọng, lần đầu tiên tại Việt Nam trong lĩnh vực lâm nghiệp, đã hoàn thành các thủ tục để chuyển nhượng thành công lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn các-bon cho Quỹ Đối tác các-bon trong Lâm nghiệp thông qua Ngân hàng Thế giới (WB) với đơn giá 5 USD/tấn CO2, tương đương 51,5 triệu USD.
Sơn Tinh