BVR&MT – Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các hiệp hội gỗ địa phương và Tổ chức Forest Trends, với sự tài trợ về mặt tài chính của Cơ quan Hợp tác Phát triển Vương quốc Anh và Cơ quan Hợp tác Phát triển Vương quốc Na Uy vừa tổ chức hội thảo tham vấn về các nội dung trong bản dự thảo của thông tư thay thế Thông tư 27/2018/TT-BNNPTNT nhằm tạo sự thông thoáng cho việc quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản.
Việt Nam hiện đang có khoảng 4,4 triệu ha rừng trồng. Hằng năm, các diện tích này cung cấp khoảng 30 triệu m3 gỗ quy tròn. Đây là nguồn nguyên liệu có vai trò quan trọng trong việc cung cấp gỗ đầu vào cho các doanh nghiệp ngành gỗ để sản xuất, chế biến phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu…
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải có chính sách quản lý phù hợp để tạo chuỗi cung ứng bền vững cho các vùng nguyên liệu đang góp phần thay thế gỗ nhập khẩu với chi phí cao cho các doanh nghiệp ngành gỗ trong nước.
Nguồn nguyên liệu gỗ trong nước hiện đang đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cung ứng gỗ đầu vào cho các doanh nghiệp ngành gỗ, bao gồm các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ, các doanh nghiệp sử dụng gỗ rừng trồng làm đồ gỗ nội địa, các doanh nghiệp xuất khẩu dăm, viên nén và ván ép, ván bóc.
Có thể nói, nguồn gỗ rừng trồng đang trở thành nhân tố quyết định trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của hàng nghìn doanh nghiệp, trực tiếp góp phần vào sự lớn mạnh của ngành gỗ và đang tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, trong đó có hàng trăm nghìn lao động là người dân địa phương, những người dân nghèo.
Đánh giá tại hội thảo, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam Đỗ Xuân Lập cho rằng, thực tế hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp có các sản phẩm gỗ xuất khẩu có sử dụng gỗ rừng trồng đang gặp phải khó khăn trong việc hoàn thuế giá trị gia tăng.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là các ách tắc trong việc xác định nguồn gốc gỗ rừng trồng và tính pháp lý trong các giao dịch ở các khâu trung gian trong chuỗi cung ứng.
Tồn tại này xảy ra bởi một số diện tích rừng hiện còn thiếu các bằng chứng pháp lý về nguồn đất đai, như đất còn thiếu sổ đỏ, đất có tranh chấp, diện tích đất trên sổ khác với diện tích thực tế, đất mua đi bán lại giữa các bên theo hình thức không chính thống, chưa sang tên đổi chủ chính thức…
Ách tắc cũng xảy ra khi các bên tham gia khâu trung gian của chuỗi cung ứng không thực hiện đúng với các quy định hiện hành về hồ sơ lâm sản và trách nhiệm về thuế trong các giao dịch của mình.
Kết quả là một số doanh nghiệp xuất khẩu phải tìm cách hợp pháp hóa đầu vào nguyên liệu của mình. Một số doanh nghiệp khác thì bị ách tắc trong việc xin hoàn thuế.
Năm 2018, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư quy định về quản lý truy xuất nguồn gốc lâm sản (Thông tư 27/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018). Nhìn chung, Thông tư đã đưa ra các quy định thông thoáng về chuỗi cung ứng gỗ rừng trồng trong nước, bao gồm từ khâu khai thác tới khâu cuối cùng của chuỗi.
Tuy nhiên, tính hợp pháp của gỗ rừng trồng trong chuỗi cung ứng lại không chỉ ràng buộc bởi Thông tư trên, mà còn phụ thuộc vào các khâu trung gian khi tham gia chuỗi cung ứng thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình, trong đó có các trách nhiệm về thuế được quy định trong các thông tư của Bộ Tài chính, đặc biệt là Thông tư 40/2021/TT-BTC về hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện đang soạn thảo Thông tư mới thay thế cho Thông tư 27/2018/TT-BNNPTNT, nhằm tăng cường sự kiểm soát của chuỗi cung ứng, bao gồm gỗ rừng trồng.
Hiện, dự thảo Thông tư đang thực hiện tham vấn, lấy ý kiến. Đây là cơ hội tốt cho các bên tham gia chuỗi cung gỗ rừng trồng trong nước tham gia góp ý kiến cho bản dự thảo của Thông tư.
Mục tiêu của thông tư mới là tạo sự thông thoáng cho việc quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản. Bên cạnh đó, thông tư mới cũng cần bảo đảm hài hòa với các quy định của quốc tế.
Theo đại diện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, dự thảo Thông tư mới gồm 7 chương 40 điều và 3 phụ lục, trọng tâm là quản lý sản phẩm gỗ khai thác theo chuỗi.
Thông tư mới sẽ phân chia cụ thể các quy định dựa trên 3 loại rừng hiện nay, gồm: rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất, thay vì chia thành rừng trồng và rừng tự nhiên như trước.
Các loại gỗ có nguy cơ rủi ro cũng được chỉ rõ là: gỗ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước, gỗ nhập khẩu không thuộc vùng địa lý tích cực, hoặc gỗ thuộc loại rủi ro theo quy định của Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam.
Thực vật rừng ngoài gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm và Phụ lục CITES khai thác từ tự nhiên…
Thông tư mới sẽ tạo động lực quan trọng trong việc tạo chuỗi cung ứng nguyên liệu gỗ bền vững để phục vụ các doanh nghiệp.
Phát biểu ý kiến tại hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và đại diện các doanh nghiệp mong muốn, Thông tư mới sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường tính minh bạch trong xác minh nguồn gốc lâm sản, hỗ trợ các chủ rừng nâng cao hiệu quả sản xuất, giá trị gỗ rừng trồng, phục vụ ngày càng tốt hơn nguyên liệu gỗ đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến đồ gỗ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.