BVR&MT – Với khả năng chuyển dẫn, điều tiết cấp nước hiện có, Việt Nam sẽ đối diện với nguy cơ thiếu từ 8,5 – 12,7 tỷ m3 nước năm 2030.
Những nguyên nhân ảnh hưởng đến nguồn nước tại Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc với tổng chiều dài hơn 41.900km và 2 hệ thống sông chính là sông Hồng và sông Cửu Long. Hàng năm, hệ thống sông ngòi và các công trình thủy lợi đảm bảo lượng nước tưới cho khoảng 11,4 triệu ha đất nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất và sản lượng.
Tuy nhiên, những năm gần đây, do biến đổi khí hậu và nhiều nguyên nhân khác nhau, lượng mưa thiếu hụt trong một thời gian dài đã khiến cho mực nước trên các sông xuống thấp, mực nước trong một số hồ chứa cũng cạn kiệt, tình trạng hạn hán và thiếu nước xảy ra thường ở miền Trung và Tây Nguyên, xâm nhập mặn nghiêm trọng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long…
Theo nghiên cứu của Viện Quy hoạch Thủy lợi, dự báo đến năm 2030, để cung cấp đủ nước cho dân sinh và các ngành kinh tế theo các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các ngành, các địa phương, đáp ứng yêu cầu chủ động ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu…Việt Nam cần từ 98 – 116 tỷ m3 nước. Nhu cầu này tăng lên 106 – 131 tỷ m3 nước vào năm 2050. Với khả năng chuyển dẫn, điều tiết cấp nước hiện có, Việt Nam sẽ đối diện với nguy cơ thiếu từ 8,5 – 12,7 tỷ m3 nước năm 2030, và thiếu từ 10,7 – 16,7 tỷ m3 vào năm 2050.
Theo Ủy hội sông Mê Công, việc các quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công đã hoàn thành và tiếp tục xây dựng nhiều hồ chứa thủy điện, thủy lợi trên cả dòng chính và dòng nhánh, với tổng dung tích trữ lên đến hàng chục tỷ m3 nước cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến dòng chảy và trữ lượng nước các con sông.
Trường hợp các quốc gia thượng nguồn không thống nhất cơ chế chia sẻ và sử dụng hợp lý nguồn nước trên các dòng sông liên quốc gia, thì Việt Nam chắc chắn phải đối mặt với nguy cơ khan hiếm nước, có khả năng sẽ xảy ra khủng hoảng nước, đe dọa đến sự phát triển ổn định về kinh tế, xã hội và an ninh lương thực của toàn vùng đồng bằng.
Như vậy, ngoài những khu vực hạn hán, thiếu nước như Trung Bộ và Tây Nguyên, trong tương lai gần, Việt Nam sẽ phải giải quyết các vấn đề tương tự cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng.
Giải pháp cho nguy cơ thiếu nước vào năm 2030
Trao đổi với Người Đưa Tin Tiến sĩ Lê Hùng Nam, Vụ trưởng Vụ Nguồn nước và nước sạch nông thôn, Tổng cục Thủy lợi cho hay, rất nhiều nước trên thế giới đã tiến hành xây dựng các siêu dự án chuyển nước nhằm đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu làm tăng nguy cơ hạn hán và thiếu nước. Thống kê cho thấy, đến năm 2018, thế giới đã có 34 siêu dự án chuyển nước với tổng chiều dài 13.049 km và khoảng cách chuyển nước trung bình là 358 km. Trong tương lai, sẽ có 76 dự án lớn khác với tổng chiều dài 80.396 km và khoảng cách chuyển nước trung bình là 482 km.
Bàn về phương án xây dựng các hệ thống chuyển nước tại Việt Nam, GS.TS. Phạm Ngọc Quý, nguyên Phó Hiệu trưởng trường Đại học Thủy Lợi phân tích với Người Đưa Tin, miền Trung Việt Nam có địa hình dốc chủ yếu theo hướng từ Tây sang Đông, thuận lợi để tạo các trục liên kết nguồn nước dọc theo sườn vùng núi phía Tây, cấp nước cho các vùng có tiềm năng phát triển kinh tế ven đường Hồ Chí Minh và khu vực ven biển.
Nhìn tổng thể trên phạm vi cả nước, lợi dụng địa hình trên có thể tính đến phương án chuyển nước từ các kho nước lớn ở khu vực phía Bắc, Trung Bộ, nơi có lượng mưa và nguồn nước khá dồi dào để điều hòa vào các vùng sa mạc, bán sa mạc, thiếu nước ở Trung Bộ, Tây Nguyên bằng hệ thống liên hoàn các công trình thủy lợi như trạm bơm, đường ống, đường hầm, kênh dẫn, hồ chứa theo cách mà các quốc gia như Trung Quốc, Israel, Hoa Kỳ…đã làm. Sau đó kết nối với nguồn nước sẵn có của khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, vùng Đông Nam Bộ tiến tới hình thành một Mạng lưới chuyển nước xuyên quốc gia dọc trục Bắc – Nam.
Mạng lưới chuyển nước xuyên quốc gia của Việt Nam sẽ lấy các điểm kết nối chính là những hồ chứa nước có dung tích lớn của từng tỉnh, từng khu vực nằm ở sát sườn phía núi phía Tây của đất nước. Các hồ chứa này ngoài chức năng đảm bảo tích trữ, cân đối, điều hòa nguồn nước giữa các mùa, vùng, lưu vực sông của riêng từng vùng còn phải đảm bảo dung tích tăng thêm phục vụ nhiệm vụ chuyển nước.
Dọc trục chuyển nước cần nghiên cứu quản lý, khai thác sử dụng cũng như phương án bổ sung lượng nước cần thiết từ các sông, hồ chứa khác để bảo đảm lưu lượng vận chuyển không bị thiếu hụt, ngắt quãng, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho các vùng, miền trên cả nước.
Xây dựng mạng lưới chuyển nước xuyên quốc gia là một quá trình dài hạn với các mục tiêu liên thế hệ, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, vì lợi ích hiện tại và tương lai của đất nước, đặc biệt khi biến đổi khí hậu đang là mối đe dọa nghiêm trọng về hạn hán, thiếu nước đối với các khu vực miền Trung, Tây Nguyên, và đồng bằng Sông Cửu Long.
Tuy nhiên, siêu dự án này cũng đòi hỏi đất nước phải có sự chuẩn bị nguồn lực đầu tư lớn.