BVR&MT – Nằm bên dòng Nậm Việc, bản Mường Đán hiện ra với những đường nét cổ kính, gợi lên chiều sâu và bề dày của dòng chảy lịch sử. Cuộc sống đã có những đổi thay nhưng nhịp sống bao đời vẫn được bà con người Thái nơi đây gìn giữ, tạo nên sức hút lạ kỳ đối với những bước chân ưa khám phá.
Từ thác Sao Va – dòng thác huyền thoại trên vùng đất Quế (thuộc địa bàn xã Hạnh Dịch – Quế Phong), chúng tôi ngược dòng Nậm Việc, mong được chạm đến Mường Đán – nơi lưu giữ bao “trầm tích” văn hóa Thái. Con đường rải nhựa quanh co như sợi chỉ vắt qua những sườn núi, qua những cánh rừng tươi xanh thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, những làn sương mỏng bồng bềnh, chơi vơi.
Con nước Nậm Việc trong xanh và rì rào tuôn chảy, chắc hẳn là một trong những con sông, con suối đẹp nhất miền Tây xứ Nghệ. Đẹp bởi vô vàn những thác ghềnh hùng vĩ, những bãi đá thơ mộng chạy suốt cả đôi bờ, những bản làng và mái nhà sàn soi bóng, những người phụ nữ Thái cần mẫn xúc cá, bắt tôm. Sự quyện hòa giữa vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống con người đã làm nên vẻ quyến rũ của dòng Nậm Việc.
Vượt chừng hơn 10 cây số, leo lên đỉnh dốc khá cao, buông tầm mắt về thung lũng phía trước, Mường Đán hiện ra thấp thoáng với những khóm cây, ngôi nhà, rừng quế nhuốm đầy sắc vàng của ánh nắng mùa Hạ. Cái nóng bức như đã dừng lại ở ngoài kia, dành lại chốn này cái mát dịu tỏa ra từ khe suối và những cánh rừng bạt ngàn sắc xanh. Chưa vội xuống bản, chúng tôi nán lại trên đỉnh dốc để ngắm phong cảnh Mường Đán từ một góc nhìn xa để tìm một điểm gì đó khác biệt. Và điều dễ nhận thấy là nét cổ được gợi lên từ những ngôi nhà sàn được dựng theo lối kiến trúc cổ, trong đó phần lớn mái được lợp bằng gỗ sa mu.
Ở những bản Thái, rất ít nơi dùng ván gỗ sa mu lợp nhà, chỉ có một số bản ở xã Tri Lễ (cũng thuộc huyện Quế Phong), nơi có độ cao lớn và gần với bản làng người Mông. Xưa nay, việc lợp gỗ sa mu được xem là bản sắc của cộng đồng người Mông, vì không gian sinh tồn của họ thường gắn liền với những đỉnh núi cao, nhiệt độ thấp hơn so với mức bình thường, xung quanh là bạt ngàn những cánh rừng sa mu.
Vì thế, những mái sa mu ở Mường Đán có thể xem là một nét đặc biệt, đủ để gợi nên sự tò mò và bất ngờ cho những vị khách miền xuôi. Có điều, người Thái thường xẻ tấm gỗ nhỏ và ngắn hơn, khi lợp lên mái rất ngay hàng, thẳng lối. Cùng với đó, những hàng cau cao vút trong vườn nhà, khẽ rung rinh trong làn gió nhẹ, tô điểm thêm cho nét cổ kính của bản mường, có cảm giác như đang lạc vào một miền đất xưa rất đỗi trù phú.
Người Mường Đán rất đỗi hiếu khách, vừa đặt chân vào bản đã được đón nhận những nụ cười thân thiện, những cái nắm tay nồng ấm và lời chào mời rất mực chân tình. Chúng tôi ghé thăm ngôi nhà đầu bản, người đàn ông đang mải miết với công việc đan lát, thấy khách đến lộ rõ niềm vui. Tạm dừng công việc, rót nước và chuyện trò, ông cho biết tên mình là Hà Văn Hùng (70 tuổi), còn tên bản là Na Xái.
Mường Đán là tên gọi ngày xưa, nay tách thành Na Xái (hơn 120 hộ) và Hủa Mương (gần 80 hộ), hai bản cách nhau một con dốc. Người vùng khác vẫn thường gọi nơi đây là Mường Đán, và người Na Xái, Hủa Mương đi ra vẫn thường nói nhà mình ở đất Mường Đán. Tên gọi mường xưa đã in đậm trong ký ức như là những lớp trầm tích kết đọng lại qua dòng chảy thời gian, ẩn chứa niềm tự hào của những cư dân nơi thượng nguồn dòng Nậm Việc.
Về thời điểm khai bản, lập mường, đến nay người Thái ở Na Xái và Hủa Mương không còn ai nắm rõ, chỉ biết Mường Đán có từ rất xưa và hàng chục đời đã cư trú trên vùng đất này. Ông Hà Văn Hùng nhớ ngày xưa ông nội của ông từng kể về gốc tích bản mường, nhưng thời gian đã quá lâu không còn nhớ được nhiều. Chỉ biết khoảng hơn 300 năm trước, tổ tiên ở vùng Lai Châu, Điện Biên do thiếu đất cư trú và phát nương, làm rẫy, phải đi tìm những vùng đất mới để khai phá bản mường, sinh cơ lập nghiệp.
Họ chia thành từng nhóm có quan hệ họ hàng, huyết thống lần bước theo đường biên giới Việt – Lào, rồi đặt chân lên vùng miền Tây Nghệ An. Đến vùng giáp ranh giữa Nghệ An và Thanh Hóa, một nhóm người Thái Thanh xuôi theo dòng Nậm Việc và tìm được một thung lũng không rộng lớn nhưng màu mỡ. Ở đó có khe suối và bãi lầy để khai hoang, núi rừng cũng không quá cheo leo, hiểm trở. Nhóm người di cư từ miền Tây Bắc quyết định dừng chân khai bản, lập mường, việc đầu tiên là dựng nhà, chẻ gỗ sa mu làm mái. Vì nơi đây, giữa rừng Pù Hoạt, lúc ấy bạt ngàn cây sa mu…
Chẳng bao lâu, cộng đồng người Thái đã biến nơi đây thành bản làng trù phú với những ngôi nhà khang trang, những khu rừng quế bạt ngàn và những thửa ruộng bậc thang màu mỡ và gọi tên là Mường Đán. Cùng với sản xuất và chăn nuôi, từ lâu phụ nữ Mường Đán nổi tiếng bởi nghề trồng bông, dệt vải. So với những sản phẩm cùng loại, sản phẩm dệt thổ cẩm của Mường Đán thường mịn, bền, đường nét hoa văn tinh xảo hơn. Điều ấy bắt nguồn từ chất liệu đảm bảo, kết hợp sự tỉ mẩn, cần cù và đôi bàn tay khéo léo, tinh tế của chị em.
Đến nay, qua mấy trăm với bao đổi thay, người Mường Đán vẫn giữ được nghề trồng bông, dệt vải với những nét riêng mang đậm bản sắc. Bao đời nay, trước hiên nhà sàn không lúc nào vắng bóng chiếc khung cửi, hằng đêm vang lên tiếng thoi đưa lách cách, tiếng cười nói rộn ràng. Chị Hà Thị Phương – một trong những người dệt vải đẹp nhất bản Hủa Mương cho biết: “Phụ nữ ở đây ngày lên rẫy làm cỏ lúa, xuống suối xúc cá, đêm về dệt váy, áo và khăn. Nhịp sống có từ xa xưa ấy vẫn được cháu con lưu giữ và xem đó là một niềm vui”.
Chị Phương cho biết thêm, ngoài việc lưu giữ nghề dệt truyền thống, các bà, các chị ở Mường Đán giữ gìn được cả những làn điệu dân ca, dân vũ Thái. Mỗi khi bản làng đón Tết hay vui hội, điệu khắp – lăm – nhuôn – xuối lại vang lên; hòa cùng tiếng cồng, chiêng, khèn, pí; hòa cùng tiếng reo vui của dòng Nậm Việc, tiếng vi vu của đại ngàn Pù Hoạt làm nên bản giao hưởng rộn ràng. Rồi cùng chung vui rượu cần, say điệu lăm vông quyến rũ, tiếng hát càng vang xa, vượt qua cả những cánh rừng phía trước.
Nói về nét đẹp cổ truyền, ông Lô Văn Chiến – Bí thư Chi bộ bản Hủa Mương cho rằng: “Mường Đán nằm sâu giữa Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, gần như tách biệt với bên ngoài nên còn lưu giữ được những nét bản sắc văn hóa Thái, từ không gian sinh tồn đến ngôn ngữ, trang phục, âm nhạc và phong tục, tập quán”. Đó là những yếu tố hết sức thuận lợi để phát triển du lịch cộng đồng, giúp người dân nơi đây có thêm nguồn thu nhập, cải thiện cuộc sống và góp phần quảng bá nét đẹp quê hương.
Được biết, huyện Quế Phong đang có kế hoạch bảo tồn không gian văn hóa Thái cổ ở hai bản Na Xái và Hủa Mương để lưu giữ bản sắc và phát triển du lịch. Đây là một hướng đi hợp lý, bởi Mường Đán có vị trí đắc địa, nằm giữa đại ngàn Pù Hoạt hùng vĩ và dòng Nậm Việc thơ mộng, có thác Bảy tầng hùng vĩ được xem là một trong những con thác đẹp nhất Nghệ An. Gần đây, đã có những đoàn du khách tìm về Mường Đán khám phá nét hoang sơ, chiêm ngưỡng phong cảnh, tắm thác Bảy tầng và trải nghiệm những nét văn hóa độc đáo của cộng đồng người Thái.
Bên cạnh đó, bà con hai bản Na Xái và Hủa Mương đang nỗ lực khôi phục lại giống cây quế Quỳ – loài cây trồng từng là đặc trưng của vùng đất Quế Phong. Số liệu chúng tôi có được, từ năm 2015 đến nay có tới 2/3 số hộ đã chuyển sang trồng quế Quỳ với số lượng khá lớn, đặc biệt ông Hà Văn Hùng trồng tới 4.000 cây, ông Hà Văn Tuyên 2.000 cây.
So với các loại gỗ nguyên liệu, thời gian sinh trưởng và thu hoạch của cây quế lớn gấp đôi nhưng cho giá trị kinh tế lớn và thu nhập cao hơn. Và điều quan trọng hơn là việc mở rộng diện tích quế Qùy góp phần bảo tồn, phát triển giống cây quý bản địa, hứa hẹn một hướng đi và triển vọng mới, phù hợp với chủ trương phát triển của địa phương…
Rời Mường Đán, chúng tôi vẫn còn bao niềm tiếc nuối, trong lòng còn bao nỗi vấn vương. Bởi thời gian ngắn ngủi, mới kịp ngắm phong cảnh hữu tình và hùng vĩ, ngắm nhìn nếp bản nguyên sơ, chưa kịp trải nghiệm hết những giá trị văn hóa được trao truyền từ bao thế hệ trước. Hẹn một dịp khác sẽ lại ngược dòng Nậm Việc, trở về với mường cổ trù phú, xinh tươi…