BVR&MT – Thỏa thuận COP15 và cam kết bảo tồn 30% đa dạng sinh học của thế giới vào năm 2030 (30×30) được nhìn nhận như một thành công vang dội của trong công tác bảo tồn trên toàn thế giới. Tuy nhiên, theo Rainforest Foundation, cam kết này có khả năng ảnh hưởng đến 300 triệu người trên toàn thế giới.
Bảo vệ động vật hoang dã trên khắp hành tinh là biện pháp bảo vệ quan trọng trước cuộc khủng hoảng đa dạng sinh học. Tùy thuộc vào bối cảnh, việc hạn chế tiếp cận các hệ sinh thái dễ bị tổn thương là vô cùng quan trọng để bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, nếu tiếp tục với cách thức lặp lại các phương pháp bảo tồn mà bỏ qua kiến thức và nhu cầu của Người bản địa, thì nỗ lực thúc đẩy 30 × 30 của COP15 gây hại nhiều hơn là có lợi.
Ngày nay, chúng ta cần kết hợp hiểu biết sinh thái hiện đại, quốc tế với kiến thức địa phương và các phương pháp bảo tồn truyền thống đi kèm. Đó là lý do tại sao tiếng nói của các đại diện địa phương lại quan trọng và cần có các đại diện tại các hội nghị bảo tồn quốc tế và các cuộc họp tài trợ bảo tồn tư nhân nơi đưa ra các quyết định phân định ranh giới đất bảo tồn.
Nghiên cứu cho thấy mặc dù 370 triệu người thổ dân trên thế giới chiếm chưa đến 5% tổng dân số thế giới, nhưng họ quản lý hơn 25% diện tích đất của thế giới và hỗ trợ 80% đa dạng sinh học của toàn thế giới.
Tuy nhiên, việc người bản địa bị buộc phải rời khỏi vùng đất tổ tiên của họ để phục vụ cho công tác bảo tồn lại diễn ra quá thường xuyên. Kể từ năm 1900, hơn 108.000 khu bảo tồn chính thức đã được thành lập trên toàn thế giới, phần lớn là kết quả của việc vận động hành lang của một số tổ chức bảo tồn quốc tế. Khoảng một nửa trong số các khu vực này đã bị người bản địa chiếm đóng hoặc sử dụng thường xuyên.
Tất nhiên, cả các tổ chức bảo tồn quốc tế và người dân bản địa địa phương đều có một mục tiêu chung là để bảo vệ đa dạng sinh học. Tuy nhiên, “mô hình bảo tồn pháo đài” thường xuyên khiến các nhóm này xung đột với nhau.
Lần đầu tiên được đề xuất ở Mỹ dưới thời Tổng thống Roosevelt, mô hình đưa người bản địa khỏi nơi sinh sống của họ để phục vụ cho công tác bảo tồn đã trở thành một kế hoạch mang tầm quốc tế. Các nhà bảo tồn lo sợ rằng tham vọng 30×30 của COP sẽ có nghĩa là mô hình này sẽ được khuyến khích trên toàn thế giới.
Báo cáo từ Project Expedite Justice tiết lộ tình trạng cưỡng bức di dời người dân khỏi nơi sinh sống của người bản địa đã xảy ra ở Tanzania cũng như Uganda, Cameroon, Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hòa Congo.
Ở miền nam châu Phi, chúng tôi đã thấy mô hình bảo tồn pháo đài ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của những người dân địa phương hết lần này đến lần khác. Chẳng hạn như, chính phủ Botswana đã thực hiện các cuộc di dời lớn đối với người San từ những năm 1960, mặc dù người San đã là người bản địa ở khu vực này hàng chục nghìn năm. Mặc dù người San đã giành được quyền trở về quê hương của họ vào năm 2006, nhưng các quan chức Botswanan đã khiến điều này gần như không thể thực hiện được bằng cách trám các khu vực trống và sử dụng các chiến thuật đe dọa khác.
Tất nhiên, việc di dời mọi người ra khỏi nhà của họ vì lợi ích của các chương trình bảo tồn nước ngoài và vì những người săn lùng chiến lợi phẩm giàu có chắc chắn giống như một sự thụt lùi về thế kỷ 20. Ở Vương quốc Anh, một dự luật hiện đang được thông qua mang tên House of Lords nhằm phản đối việc nhập khẩu chiến lợi phẩm săn bắn trò chơi lớn. Nhiều người phản đối dự luật lập luận rằng, việc săn chiến lợi phẩm mang lại thu nhập cho người dân địa phương, mặc dù các báo cáo cho thấy chưa đến 3% doanh thu được dùng để phát triển cộng đồng.
Chúng ta phải nhớ rằng nhiều cộng đồng bản địa, như người San, đã cố gắng sống hòa hợp với thiên nhiên qua nhiều thế hệ bằng cách tuân theo các mô hình chăn thả theo mùa, từ đó giúp ngăn chặn sự suy thoái đất. Thật vậy, ý tưởng cho rằng con người bằng cách nào đó tách biệt khỏi tự nhiên là một ý tưởng phương Tây không được đồng tình bởi người dân bản địa đã chứng tỏ mình là người có hiệu quả nhất trong công cuộc bảo tồn.
Tất nhiên, không phải tất cả các tổ chức phi chính phủ về bảo tồn đều chấp thuận mô hình này. Một dẫn chứng là Công viên Châu Phi: tích hợp và đầu tư vào kiến thức và sức khỏe địa phương để bảo tồn các vùng đất tự nhiên là cốt lõi đối với đặc tính của họ. Trái ngược với việc chính phủ và các tổ chức nước ngoài chỉ trục xuất các cộng đồng địa phương, Công viên Châu Phi sử dụng người dân địa phương và đầu tư vào giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Ví dụ, năm 2017, 66.000 người dân địa phương được chăm sóc sức khỏe, 76.000 trẻ em được hỗ trợ giáo dục và hơn 65.000 người lớn được đào tạo về bảo tồn. Tôi tin rằng mô hình Công viên Châu Phi đạt được sự cân bằng hiệu quả cho việc bảo tồn toàn diện và nhân đạo.
Vấn đề không đơn giản như “các công viên bảo tồn so với các cộng đồng bản địa”. Câu hỏi đặt ra là chính xác hai nhóm này làm việc cùng nhau như thế nào. Thách thức của công tác bảo tồn tùy thuộc vào địa điểm và bối cảnh cụ thể. Câu hỏi chúng ta phải đặt ra là ai đang ngồi trong bàn đàm phán, đưa ra quyết định về các phương pháp tốt nhất để bảo tồn đất đai của chúng ta.
Chúng ta thường thấy cuộc họp bảo tồn quốc tế khác nhau sẽ bao gồm các tổ chức bảo tồn động vật hoang dã ngồi bên cạnh các khu vực tư nhân và tài chính, và rõ ràng là các đại diện địa phương hầu như luôn vắng mặt trong quá trình ra quyết định.
Ngay cả tại COP15, chúng tôi cũng thấy rằng những người Bản địa, những người đại diện cho 10.000 quốc gia truyền thống trên toàn cầu, chỉ có khoảng ba phút để đóng góp vào các cuộc đàm phán.
Để bảo vệ đa dạng sinh học của Châu Phi một cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả, chúng ta phải kết hợp sự hiểu biết về sinh thái hiện đại với các thực hành và tín ngưỡng bảo tồn truyền thống. Những người ngồi trong các văn phòng phương Tây không được phép vẽ các đường trên bản đồ những nơi họ chưa từng đến, ngay cả khi việc đó được thực hiện dưới vỏ bọc đạo đức là ‘bảo tồn’.
Nếu chúng ta không mang lại cho người bản địa tiếng nói mà họ cần và xứng đáng trên trường quốc tế, thì chúng ta sẽ tiếp tục thất bại trong công cuộc bảo vệ các vùng đất hoang dã và những người bảo vệ chúng.