BVR&MT – Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo, của Trung ương, các bộ ngành cùng sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, tỉnh Lai Châu đã triển khai thực hiện một số chương trình từng bước đạt hiệu quả như hỗ trợ trực tiếp hộ nghèo ở những vùng khó khăn ổn định đời sống.
Đặc biệt như chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg và Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững (2016 -2020) . Nhìn chung nguồn vốn để triển khai thực hiện chính sách được phân bổ kịp thời, ổn định, đảm bảo theo nhu cầu đối tượng thụ hưởng, đã tạo điều kiện cho chương trình hoàn thành đúng kế hoạch. Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện thường xuyên.
Tuy nhiên, Lai Châu là tỉnh miền núi Tây Bắc với xuất phát điểm còn nhiều khó khăn trong nội lực để phát triển kinh tế xã hội nên việc thực hiện các Chương trình giảm nghèo cũng gặp không ít khó khăn như địa bàn rộng, dân cư phân bố không đều, phân tán không tập trung, giao thông đi lại không thuận lợi, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế giữa các vùng miền. Qua đó phần nào ảnh hưởng đến công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện chính sách.
Trên địa bàn tỉnh Lai Châu hiện nay có 97 xã, thị trấn được thụ hưởng theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg, trong đó gồm: 22 xã khu vực II, 75 xã khu vực III. Theo đánh giá năm 2016 đã có 08/08 huyện, thành phố đã ban hành Quyết định phê duyệt danh sách đối tượng thụ hưởng chính sách và hình thức, nội dung hỗ trợ đối với 16.618 hộ và 78.618 nhân khẩu, cụ thể : Xã khu vực II với 2.796 hộ, 11.719 khẩu, xã khu vực III gồm 13.822 hộ, 66.899 khẩu.
UBND tỉnh Lai Châu đã giao kế hoạch vốn thực hiện Quyết đinh 102/2009/QĐ-TTG tại Quyết định số 35/2015/QĐ-UBND ngày 11/12/2015 với tổng số là 8.783 triệu đồng và tất cả các huyện, thành phố đã lựa chọn hình thức hỗ trợ tiền mặt.
Theo ghi nhận tính đến thời điểm 31/12/2016 các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Lai Châu đã hỗ trợ đối với 15.608 hộ với 73.857 khẩu (trong đó xã khu vực II hỗ trợ 2.634 hộ, 10.967 khẩu, các xã thuộc khu vực III đã hỗ trợ 12.974 hộ với 62.890 khẩu), mức tổng kinh phí hỗ trợ trên 7.166,36 triệu đồng.
Qua công tác đánh giá chung, chính sách đã đã đến được với người dân, giúp người dân chủ động trong việc mua sắm giống cây trồng, vật nuôi, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất hộ gia đình cũng như tăng thu nhập. Mặt khác công tác lãnh đạo, chỉ đạo luôn được quan tâm, cùng với việc xây dựng kế hoạch, kiểm tra rà soát, xác định đối tượng thụ hưởng là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai chính sách
Tuy nhiên có một thực tế hiện nay việc xác định đối tượng hỗ trợ của một số địa phương còn lúng túng giữa hộ chuẩn nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 với hộ nghèo theo tiêu chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Đề nghị Bộ NN&PTNT sớm hoàn thiện chính sách hỗ trợ sản xuất cho các hộ nghèo và hộ cận nghèo lồng ghép để thực hiện.
Lê Hồng