BVR&MT – Năm 2022 được kỳ vọng là năm hồi phục của nền kinh tế thế giới sau ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, năm 2022 lại bị bao phủ bởi các cuộc “chiến tranh” mới là lạm phát kỷ lục và thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu. Theo hãng thông tấn AFP (Pháp), năm 2022 là một năm “đa khủng hoảng” và năm 2023 được dự đoán sẽ không kém phần u ám.
Giáo sư kinh tế vĩ mô Roel Beetsma tại Đại học Amsterdam (Hà Lan) nhận định: “Số lượng các cuộc khủng hoảng đã tăng lên kể từ đầu thế kỷ. Chúng ta chưa bao giờ thấy tình huống phức tạp như vậy kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai”.
Sau khủng hoảng kinh tế do COVID-19 gây ra vào năm 2020, giá tiêu dùng bắt đầu tăng vào năm 2021 khi các quốc gia nới lỏng tình trạng phong tỏa hoặc các hạn chế khác.
Nhiều ngân hàng trung ương khẳng định rằng lạm phát cao sẽ chỉ là tạm thời bởi các nền kinh tế quay trở lại với trạng thái bình thường. Tuy nhiên, xung đột Nga – Ukraine bùng phát vào cuối tháng 2 đã khiến giá năng lượng và thực phẩm tăng vọt.
Nhiều quốc gia đang phải vật lộn với khủng hoảng chi phí sinh hoạt do tiền lương không theo kịp lạm phát, buộc các hộ gia đình phải đưa ra lựa chọn khó khăn trong chi tiêu. Cô Nicole Eisermann – một tiểu thương tại chợ Giáng sinh Frankfurt (Đức) – chia sẻ: “Mọi thứ ngày càng đắt đỏ, từ kem cho tới rượu và điện”.
Các ngân hàng trung ương đã ra tay. Trong năm nay, họ bắt đầu tăng lãi suất với nỗ lực kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, điều này mang rủi ro đẩy các quốc gia vào suy thoái nặng nề hơn vì chi phí vay mượn cao đồng nghĩa với hoạt động kinh tế chậm lại.
Lãi suất tăng cao cũng gây tổn thương cho người tiêu dùng và doanh nghiệp. Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) Jerome Powell cho biết biên độ tăng lãi suất có thể bớt căng thẳng từ tháng 12. Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng chính sách tăng lãi suất có thể sẽ phải duy trì chặt chẽ trong một thời gian để khôi phục ổn định về giá cả.
Về phần mình, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde gửi tín hiệu rõ ràng rằng ECB sẽ duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt. Bà cho rằng lạm phát khu vực Eurozone vẫn chưa đạt đỉnh. Các nhà kinh tế học cho rằng Đức và Italy có thể lâm vào suy thoái. S&P Global (Mỹ) dự đoán Eurozone rơi vào đình trệ trong năm 2023.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), giá tiêu dùng tại Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) dự kiến đạt mức 8% trong quý 4 sau đó giảm còn 5,5% vào năm sau. OECD khuyến khích các chính phủ đưa ra gói viện trợ để hỗ trợ các hộ gia đình.
Liên minh châu Âu (EU) với 27 quốc gia thành viên đã dành 674 tỷ euro (704 tỷ USD) để bảo vệ người tiêu dùng trước giá năng lượng tăng cao. Nền kinh tế lớn nhất châu Âu là Đức đóng góp 264 tỷ euro trong số này. Theo một khảo sát do công ty EY (Anh) thực hiện, 50% số người Đức được hỏi cho biết họ chỉ mua sắm những mặt hàng thiết yếu.
Tuy nhiên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vẫn kỳ vọng kinh tế thế giới tăng trưởng trong năm 2023 ở mức 2,7%. OECD dự đoán tăng trưởng 2,2%.
Trong khi đó, COVID-19 vẫn là một yếu tố rủi ro với nền kinh tế toàn cầu. Chính sách zero-COVID của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhưng Bắc Kinh đã bắt đầu nới lỏng các hạn chế.
Với Giáo sư Roel Beetsma, khủng hoảng lớn nhất lại chính là biến đổi khí hậu. Theo tập đoàn Swiss Re (Thụy Sĩ), tính từ đầu năm 2022 đến nay, các thảm họa tự nhiên và nhân tạo đã gây ra thiệt hại kinh tế 268 tỷ USD. Chỉ riêng cơn bão Ian đã gây thiệt hại vào khoảng 50 – 65 tỷ USD. Lũ lụt tại Pakistan dẫn đến thiệt hại 30 tỷ USD trong năm nay.
Tại Hội nghị lần thứ 27 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 27) ở Ai Cập tháng 11 vừa qua, các chính phủ nhất trí tạo một quỹ nhằm bù đắp tổn thất mà những nước đang phát triển phải hứng chịu do thảm họa thiên nhiên.
Nhưng hội nghị thượng đỉnh COP27 đã kết thúc mà không có các cam kết mới nhằm loại bỏ dần việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, bất chấp tính cấp thiết của cắt giảm khí thải nhà kính và làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu.
“Đó không phải là một cuộc khủng hoảng cấp tính mà là một cuộc khủng hoảng lâu dài. Nếu chúng ta không hành động đủ thì điều này sẽ gây ảnh hưởng đến chúng ta ở quy mô chưa từng có tiền lệ”, Giáo sư Beetsma cảnh báo.