BVR&MT – Thanh tra Chính phủ khẳng định kết luận của Thanh tra thành phố Hà Nội Đối với việc quản lý, sử dụng đất sân bay Miếu Môn là chính xác.
Ngày 27/8, thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trường trực Chính Phủ Trương Hòa Bình tại Thông báo số 118/TB-VPCP ngày 4/7/2019 của Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức hội nghị thông tin với các cơ quan thông tấn, báo chí về quá trình thanh tra việc quản lý, sử dụng đất khu sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
Kết luận của Thanh tra thành phố Hà Nội là chính xác
Tại hội nghị, đại diện Thanh tra Chính phủ khẳng định việc tiến hành thanh tra của Thanh tra thành phố Hà Nội là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về thanh tra.
Đối với việc quản lý, sử dụng đất sân bay Miếu Môn, kết luận của Thanh tra thành phố Hà Nội là chính xác. Theo đó, đối chiếu với quy định của pháp luật về đất đai, toàn bộ đất sân bay Miếu Môn là đất quốc phòng, được Thủ tướng Chính phủ giao đất, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện công tác quy hoạch, đăng ký đất đai, đăng ký biến động về sử dụng đất, lập bản đồ hiện trạng, ban hành quyết định giao đất cho đơn vị Quân chủng Phòng không Không quân để tiếp tục sử dụng làm vị trí đóng quân của Lữ đoàn 28 là đúng thẩm quyền, phù hợp với quy định pháp luật.
Từ thời điểm Quyết định số 5383/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội được ban hành vào ngày 20/10/2014 trở về trước không có sự tranh chấp về diện tích đất tại sân bay Miếu Môn. Mọi sự vi phạm liên quan đến việc lấn chiếm, cản trở đơn vị quân đội trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng cần phải được xử lý nghiêm theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, Thanh tra thành phố Hà Nội kết luận những sai phạm trong việc xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho 14 hộ dân sử dụng đất sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm là có căn cứ, đảm bảo tính khách quan.
Đáng chú ý, phương pháp xử lý của thanh tra Hà Nội đối với các nội dung tố cáo của công dân là phù hợp với quy định pháp luật về tố cáo; kiến nghị của ông Lê Đình Kình và một số công dân là không có căn cứ, không có cơ sở.
Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Văn Thanh cho biết thêm phân tích kỹ bản đồ đất đai khu vực sân bay Miếu Môn được xác lập năm 1992. Thời điểm đó không có tranh chấp, những vi phạm đất đai đều xảy ra sau thời điểm này.
Đặc biệt, theo quy định của pháp luật, ông Lê Đình Kình không có quyền, lợi ích hợp pháp trong vùng đất thuộc sân bay Miếu Môn. Cho nên, ông Lê Đình Kình không có quyền khiếu nại kết luận của thanh tra vì không phải đối tượng của cuộc thanh tra.
Đối tượng của thanh tra là chính quyền các cấp của Hà Nội và các hộ sử dụng đất. Hiện, 14 hộ dân đang sử dụng đất sân bay Miếu Môn đã đồng thuận cao phương án bồi thường, hỗ trợ mới.
Nội dung khiếu kiện của một số công dân chưa đúng
Trả lời các câu hỏi của phóng viên thông tấn, báo chí, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung khẳng định việc tổ chức kết luật thanh tra toàn diện tại Miếu Môn đã được Thanh tra thành phố Hà Nội thực hiện theo đúng quy trình quy định, thông báo công khai rộng rãi dưới nhiều hình thức.
Công tác tuyên truyền đối thoại đã được huyện Mỹ Đức và các cơ quan chuyên môn tổ chức nhiều lần với người dân xã Đồng Tâm. Dự kiến sau hội nghị này, xét thấy nếu cần thiết, còn điều gì chưa thỏa đáng, thành phố sẽ tiếp tục tổ chức gặp gỡ, trao đổi làm rõ các vấn đề liên quan.
Nhận định về việc có hay không có các đối tượng lợi dụng vụ việc để đưa ra luận điệu sai trái, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Nguyễn Đức Chung cho rằng có một bộ phận người dân lợi dụng đi khiếu kiện, tố cáo, lợi dụng dự án Bộ Quốc phòng đang triển khai nhằm mục tiêu trục lợi. Cụ thể, là ông Lê Đình Kình có huy động tiền từ các đối tượng tại xã Đồng Tâm, gây sức ép với chính quyền xã, huyện để xem có được bồi thường, hỗ trợ hay không.
Về việc ông Lê Đình Kình có nêu 59ha đất nông nghiệp là khu đất đồng Sênh là khu đất của dân, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội khẳng định với tài liệu thu thập được, 59 ha đất nông nghiệp tại Đồng Sênh không phải là đất của dân tại đây.
Trước đó, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, Thanh tra thành phố đã tiến hành thanh tra toàn diện việc quản lý, sử dụng và quá trình xử lý từ trước đến nay đối với diện tích đất khu sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức. Ngày 19/7/2017, Thanh tra thành phố Hà Nội đã ban hành Kết luận số 2346/KL-TTTP- P5 kết luận thanh tra toàn diện việc quản lý, sử dụng và quá trình xử lý từ trước tới nay đối với diện tích đất khu sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức với bốn nội dung chính gồm nguồn gốc đất, việc quản lý, sử dụng đất, việc giải phóng mặt bằng di chuyển 14 hộ dân đang sử dụng đất quốc phòng và xử lý đơn kiến nghị, phản ánh của ông Lê Đình Kình và một số công dân.
Cụ thể, theo Quyết định số 113/TTg ngày 14/4/1980 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 386-QĐ/UB ngày 10/11/1981 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Sơn Bình, Quyết định số 5383/QĐ-UBND ngày 20/10/2014 của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, toàn bộ đất sân bay Miếu Môn là đất quốc phòng, được các đơn vị quân đội sử dụng vào mục đích quốc phòng, cắm mốc giới bêtông cốt thép, lập các sơ đồ, bản đồ quản lý đất sân bay với 16 mốc giới, trong quá trình quản lý đã cắm dày thêm 41 mốc thành 57 mốc có tọa độ theo quy chuẩn.
Đến thời điểm thanh tra, toàn bộ diện tích đất cơ bản phù hợp với diện tích đất các tổ chức đã bàn giao cho Bộ Tư lệnh công binh. Quá trình đo đạc ở các thời điểm có sai số không lớn, chủ yếu do trừ đường giao thông chạy qua, không làm ảnh hưởng tới việc quản lý, sử dụng đất quốc phòng.
Từ năm 1981 đến nay, toàn bộ diện tích đất sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm do các đơn vị quốc phòng quản lý, sử dụng. Trong quá trình quản lý, sử dụng, các đơn vị quốc phòng cũng như Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm đã buông lỏng quản lý trong một thời gian dài các đơn vị quốc phòng đã ký hợp đồng canh tác đất tăng gia hàng năm với Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm để Ủy ban Nhân dân xã giao cho các đội sử dụng vào mục đích nông nghiệp; chưa thực hiện di dời một số hộ dân đã ở trên đất quốc phòng từ trước năm 1980, để các hộ lấn chiếm, cho tặng, chuyển nhượng, xây dựng công trình trái phép mà đơn vị quốc phòng không có biện pháp xử lý kiên quyết, triệt để.
Bên cạnh đó, Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm đã buông lỏng quản lý để các hộ dân xây dựng không phép trên đất quốc phòng; từ năm 2003-2010, Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm đã xác nhận các hồ sơ thừa kế, cho, tặng, chuyển nhượng của các hộ dân đang sử dụng đất quốc phòng là trái thẩm quyền và vi phạm pháp luật về quản lý đất đai.
Việc thực hiện trình tự, thủ tục giải phóng mặt bằng của Ủy ban Nhân dân huyện Mỹ Đức là đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật. Trong 14 hộ dân đang sử dụng đất quốc phòng chỉ có năm hộ có giấy do Ủy ban hành chính xã, Hợp tác xã nông nghiệp Đồng Tâm cho, cho mượn đất để ở và sản xuất từ trước năm 1980, giấy tờ của các trường hợp khác không có căn cứ pháp luật.
Tại thời điểm kiểm đếm, diện tích sử dụng của các hộ tăng lên rất nhiều trong khi Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm xác nhận nguồn gốc là đất quốc phòng, không xác định nguyên nhân và thời điểm tăng diện tích đất, thời điểm xây dựng công trình nhưng Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định cư huyện Mỹ Đức đã căn cứ vào xác nhận của Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm, liên ngành lại căn cứ vào báo cáo của Ủy ban Nhân dân huyện Mỹ Đức về diện tích và thời điểm sử dụng đất của các hộ dân, đề xuất chính sách để Ủy ban Nhân dân huyện xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ dự thảo đã tính bồi thường, hỗ trợ đất ở cho 13/14 hộ với diện tích từ 360-900m2 là không chặt chẽ, thiếu kiểm tra.
Đến thời điểm thanh tra, Ủy ban Nhân dân huyện Mỹ Đức và các ngành có liên quan đã thống nhất thu hồi dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã lập cho 14 hộ dân trước đây.
Đối với đề nghị trả tiền bồi thường về đất khi giải phóng mặt bằng khu đất 14 hộ dân đang sử dụng đất quốc phòng cho nhân dân xã và Giấy kê khai đất nông nghiệp của ông Trần Văn Thục ghi ngày 29/4/2017 về việc gia đình có đất cá thể nằm trong khu đất sân bay Miếu Môn là không có căn cứ. Đối với nội dung kiến nghị liên quan đến diện tích đất nông nghiệp 59ha, các thông tin ông Lê Đình Kình và một số công dân nêu không nhất quán (có đơn nêu là 49ha, có đơn nêu là 59ha do Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm quản lý; có đơn nêu là đất bỏ hoang; có đơn nêu 59ha đất nông nghiệp của nhân dân…).
Việc ông Lê Đình Kình và một số công dân cho rằng phần diện tích đất sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm là 106ha (có đơn nêu là 96ha) là không đúng.
Theo hồ sơ quản lý đất nông nghiệp của Ủy ban Nhân dân xã Đồng Tâm, xã Đồng Tâm không có đất nông nghiệp diện tích 59ha hoặc 49ha xứ đồng Sênh như ông Lê Đình Kình và một số công dân nêu.
Các mốc giới do công dân dẫn Đoàn thanh tra kiểm tra tại hiện trường và vẽ trên một phần sơ đồ hiện trạng đất sân bay năm 2013 là các mốc giới hạn diện tích 50,03ha do Quân chủng Phòng không Không quân cắm năm 2016 để giao đất cho Tập đoàn Viễn thông quân đội xây dựng dự án quốc phòng nằm trong đất sân bay Miếu Môn.