BVR&MT – Việt Nam có truyền thống lâu đời về chăn nuôi gia súc, nhất là chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, nhưng ngành chăn nuôi này cũng đã và đang gây ra những áp lực nặng nề về môi trường.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước, chất thải rắn và không khí tại các khu vực chăn nuôi là vấn đề bức xúc cho xã hội đòi hỏi các nhà quản lý cần có những giải pháp quản lý hiệu quả hơn nữa.
Chưa có công nghệ xử lý hiệu quả
Thạc sỹ Nguyễn Thị Quỳnh Hương, Viện Khoa học môi trường, cho biết ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam đứng thứ 6 trên thế giới về sản lượng lợn và là ngành đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (đóng góp 26,3% trong giá trị nông nghiệp, chiếm 4,8% GDP, dự kiến đạt 42% năm 2020).
Từ năm 2000-2005, ngành chăn nuôi lợn phát triển mạnh mẽ, số lượng đàn lợn tăng đột biến từ 20.200 con tăng lên hơn 27,43 triệu con. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay, chính sách phát triển chăn nuôi lợn đã có sự chuyển dịch sang ổn định tổng số đầu lợn, tăng giá trị sản xuất và quy mô đàn. Từ năm 2010-2017, tổng số đầu lợn trên cả nước dao động từ hơn 27.37 triệu con đến hơn 28,91 triệu con.
Bên cạnh những thành quả mà ngành chăn nuôi lợn mang lại, thì ngành cũng tạo ra nhiều áp lực về môi trường. Chăn nuôi nông hộ từ 10-100 con lợn trong phạm vi chật hẹp của gia đình. Mặc dù, các hộ gia đình có xây dựng hầm biogas, song đa phần đều bị quá tải. Chất thải nhiều nơi được thải trực tiếp ra ao, hồ, kênh mương của địa phương gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Chăn nuôi trang trại là chăn nuôi tại các khu vực có diện tích lớn, với quy mô trên 100 con lợn ngày càng phát triển phổ biến ở các địa phương. Đây là hình thức chăn nuôi được phát triển theo chủ trương của Chính phủ trong bối cảnh hội nhập, hiện đại hóa.
Chăn nuôi theo quy mô trang trại đã góp phần cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường. Tại nhiều địa phương như Nghệ An, Hà Tĩnh…, ủy ban nhân dân các tỉnh đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi tài chính để phát triển mạnh mẽ mô hình này, nhằm hạn chế chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ. Tuy vậy, sự bùng nổ về số lượng trang trại chăn nuôi với quy mô đàn lớn, trong khi công tác kiểm soát ô nhiễm còn chưa đồng bộ đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng.
Thực tế cho thấy mặc dù các cơ quan chức năng đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý môi trường chăn nuôi tương đối đầy đủ. Quy định chức năng, nhiệm vụ ở từng cấp về quản lý môi trường chăn nuôi nói chung đã được ban hành. Nhưng bên cạnh những ưu điểm, thực tiễn triển khai đã và đang bộc lộ những tồn tại nhất định.
Cụ thể là Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ trong quản lý chất thải chăn nuôi. Việc xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn xả thải cho ngành chăn nuôi được thực hiện bởi cả hai Bộ.
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia TCN-678:2006 về nước thải sau xử lý khí sinh học của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không còn hiệu lực khi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn ra đời. Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành QCVN 62-MT:2016/BTNMT về nước thải chăn nuôi với các chỉ tiêu quá cao so với khả năng thực tế ứng dụng công nghệ xử lý môi trường hiện tại, dẫn đến hầu hết các trang trại đều không thể đáp ứng yêu cầu đặt ra do chưa có công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi hiệu quả.
Mặc dù hai Bộ có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ nhưng bỏ sót nhiều khoảng trống trong quản lý môi trường chăn nuôi. Thực tế triển khai cho thấy do hạn chế về nhân lực của các Sở Tài nguyên và Môi trường, số lượng và tần suất thanh tra, kiểm tra tại các địa phương là rất hạn chế. Chẳng hạn như tại Hòa Bình, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh chỉ mới thanh tra, kiểm tra thường xuyên tại 20 trang trại trên tổng số 78 cơ sở chăn nuôi. Còn ở Hà Nam, đã có bảy cơ sở chăn nuôi trên tổng số 20 trang trại bị phạt trên 90 triệu đồng do không thực hiện đúng cam kết trong Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM).
Tại Hà Tĩnh, do số lượng trang trại tăng đột biến trong năm 2015, trong khi số lượng cán bộ là sáu người có chức năng thanh tra, kiểm tra môi trường của Chi cục Bảo vệ môi trường. Do đó, hằng năm chỉ có hai đợt thanh tra định kỳ và tiến hành thanh tra đột xuất khi có đơn thư, khiếu nại trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, các quy định pháp luật liên quan đến quản lý chất thải và nước thải chăn nuôi lợn còn nhiều bất cập, thiếu tính khả thi. Các tiêu chuẩn kỹ thuật mới chỉ được ban hành cho các công trình khí sinh học quy mô nhỏ. Chưa có tiêu chuẩn đối với quy mô công trình khí sinh học trang trại ( từ 50-1.000m3, tương ứng với quy mô từ 200-4.000 con lợn).
Thực tế, các chủ doanh nghiệp phải tự nghiên cứu và lắp đặt công trình theo tư vấn của các công ty tư vấn môi trường. Nhiều công trình khí sinh học không hoạt động hiệu quả. Đối với việc thu hồi khí sinh học, chưa có văn bản nào quy định về việc thu hồi, sử dụng. Đây là nguồn nguyên liệu sạch được sử dụng hiệu quả cho việc phát điện hoặc cung cấp nhiên liệu chạy động cơ đã được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới (như Thái Lan).
Một bất cập khác về quy định trong văn bản pháp luật là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý số lượng đàn, các quy định về quy mô trang trại theo số lượng đầu lợn (trang trại quy mô >100 con lợn). Trong khi Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý theo quy mô trang trại. Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, các trang trại có diện tích >1.000m2 phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và đề án bảo vệ môi trường chi tiết, nên dẫn đến các số liệu thống kê còn chưa khớp.
Đề xuất giải pháp
Để đạt mục tiêu ngành chăn nuôi phát triển theo hướng chăn nuôi công nghiệp tập trung và hiện đại, bảo đảm chăn nuôi an toàn, thân thiện với môi trường nhằm phát triển bền vững, đã và đang xuất hiện các mô hình có thể triển khai ra diện rộng như trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trước sự gia tăng về số lượng và quy mô của các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn, năm 2017, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh phối hợp với Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện, thành, thị thực hiện hỗ trợ các hộ chăn nuôi xây dựng hệ thống xử lý chất thải tại chỗ.
Bên cạnh việc tuyên truyền cơ chế, chính sách hỗ trợ của tỉnh, Chi cục tăng cường hướng dẫn quy trình vận hành, bảo dưỡng các công trình xử lý chất thải chăn nuôi để người dân áp dụng và thực hiện đúng quy trình. Đến nay, Chi cục đã hỗ trợ xây dựng được trên 4.500 công trình xử lý chất thải, trong đó có hơn 3.000 hầm biogas; 1.450 đệm lót sinh học; 26 bể lọc, sục khí… Qua thực nghiệm, các công trình xử lý chất thải chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đều mang lại hiệu quả, góp phần không nhỏ trong việc giải quyết ô nhiễm môi trường.
Ông Nguyễn Duy Hưng, chủ trại chăn nuôi lớn ở thôn Rừng Trũng, xã Xuân Hòa, huyện Lập Thạch chia sẻ hiện gia đình ông nuôi 1.000 con gà và 150 con lợn (trong đó có 126 lợn thịt, 24 lợn nái). Năm 2017, theo chương trình hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý chất thải trên địa bàn huyện, gia đình ông được hỗ trợ 20 triệu đồng để xây lắp hệ thống xử lý nước thải. Từ khi hệ thống đi vào hoạt động, đến nay, nước thải ra không còn màu đen kịt, mùi hôi như trước.
Thạc sỹ Nguyễn Thị Quỳnh Hương cho rằng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp khả thi. Trước hết, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần triển khai hiệu quả chương trình phối hợp công tác giữa hai bộ giai đoạn 2017-2020; phối hợp chặt chẽ trong rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ, thay thế các văn bản pháp luật quy định về quản lý môi trường trong hoạt động chăn nuôi đáp ứng yêu cầu thực tiễn (sửa đổi Quy chuẩn Việt Nam đối với nước thải chăn nuôi, ban hành quy chế bảo vệ môi trường trong chăn nuôi, ban hành hướng dẫn, tiêu chuẩn đối với công trình khi sinh học quy mô trang trại, xây dựng và ban hành hướng dẫn kỹ thuật sản xuất sạch hơn trong hoạt động chăn nuôi…).
Đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp và kịp thời nhằm tăng cường sử dụng nguồn khí sinh học từ các công trình khí sinh học phục vụ cho phát điện, chạy động cơ góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và giảm phát thải khí nhà kính.
Công tác thẩm định và hậu thẩm định đánh giá tác động môi trường ở các cấp cần được thực hiện chặt chẽ, bảo đảm yêu cầu. Công tác thanh tra, kiểm tra phải được tăng cường mạnh mẽ hơn nữa. Nguồn nhân lực về quản lý môi trường tại Sở Tài nguyên và Môi trường và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên bổ sung cả về số lượng và chất lượng.
Mặt khác triển khai các nghiên cứu về công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi hiệu quả xử lý cao và chi phí đầu tư phù hợp, kỹ thuật tách phân rắn để ủ compost và các công trình xử lý sau biogas trước khi xả thải vào môi trường. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính theo hướng dễ tiếp cận đối với các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực chăn nuôi có xây dựng công xây công trình khí sinh học; trợ giá tiêu thụ sản phẩm phân compost từ chất thải, trợ giá tiêu thụ điện với các trang trại có sử dụng hệ thống phát điện từ khí biogas, phát triển sạch (CDM).