BVR&MT – Do ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, mùa khô năm 2019-2020, dự báo mực nước đầu nguồn sông Cửu Long thấp, dẫn đến tình trạng thiếu nước trầm trọng, khả năng cao xâm nhập mặn sẽ gia tăng.
Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia cho hay, từ tháng 6-8 năm nay, mực nước thượng lưu sông Mê Kông ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm từ 2,5m đến 5,0m, ở trung và hạ lưu thấp hơn từ 2,5m đến 3,5m. Tổng lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Kông về đồng bằng sông Cửu Long tại trạm Kratie (Campuchia) thấp hơn trung bình nhiều năm cùng kỳ 48%, tương đương năm 2010 (năm thiếu hụt kỷ lục).
Cùng với đó, khi các thủy điện trên dòng chính ở thượng lưu và các thủy điện dòng nhánh tích nước sử dụng cho mục đích riêng, dẫn đến mùa khô năm 2019-2020, mực nước đầu nguồn sông Cửu Long sẽ chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều dẫn đến thiếu nước trầm trọng và xâm nhập mặn gia tăng.
Nhiều chuyên gia về thủy văn đánh giá, khả năng xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đến sớm ngay trong các tháng cuối năm 2019 thay vì tháng 3, tháng 4 năm 2020 với mức độ khốc liệt. Chính vì vậy, các tỉnh, thành phố khu vực này cần sớm có các biện pháp chủ động phòng chống.
PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (Trường Ðại học Cần Thơ) cho biết, năm nay hiện tượng El Nino trở lại khu vực, lượng nước mưa khá thấp. Tiếp đó là chuỗi các đập thủy điện ở thượng nguồn đều đồng loạt tích nước vào các hồ chứa, lượng nước xả về hạ lưu rất ít. Nếu các tỉnh đầu nguồn khu vực đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục chạy theo làm lúa vụ 3 (vụ thu đông) thì sẽ làm các tỉnh vùng ven biển khan hiếm nước hơn, nước mặn sẽ theo thủy triều dấn sâu hơn vào đất liền và có nhiều nguy cơ nhiễm mặn cả những vùng nước ngọt trước đây như TP.Cần Thơ, tỉnh Vĩnh Long và sẽ mở rộng ở các tỉnh còn lại. Tình trạng nguồn nước bị nhiễm mặn, ô nhiễm nước mặt sẽ tăng nhu cầu khai thác nước ngầm làm tình trạng lún sụt đồng bằng thêm nặng nề.
Do đó, Trung ương và các địa phương cần phải có những dự báo sớm dựa vào các mô hình phỏng đoán trên thế giới và khu vực để có những chỉ đạo và khuyến cáo cho người dân. Về ngắn hạn, cần giảm các diện tích canh tác lúa ở những vùng gò cao, các vùng ven biển, chuyển một phần diện tích trồng lúa sang những cây trồng cạn ít tiêu thụ nước hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Khuyến khích và hỗ trợ nông dân tìm mọi cách trữ nước ở các vùng trũng như ao hồ, các kênh mương… và các lu chứa, bể chứa nước mưa. Người dân cần sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả.
Về dài hạn, cần vận dụng các biện pháp ngoại giao, luật pháp và kinh tế để yêu cầu các quốc gia thượng nguồn phải xem Mê Kông là dòng sông chung cho khu vực, các nước phải có trách nhiệm chia sẻ nguồn tài nguyên chung này…
Với những nhận định trên, để phục vụ tốt việc phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn, hạn chế thiệt hại, Tổng cục Khí tượng thủy văn (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tiếp tục tăng cường quan trắc dòng chảy, quan trắc mặn phục vụ dự báo, cảnh báo và phòng chống hạn hán và xâm nhập mặn.
Đồng thời, theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình hạn hán, xâm nhập mặn để ban hành bản tin dự báo, cảnh báo kịp thời phục vụ các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo, điều hành, sản xuất nông nghiệp phù hợp với điều kiện nguồn nước và triển khai các giải pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; đổi mới, nâng cao chất lượng, hình thức, chi tiết hóa và cải tiến bản tin tập trung vào dự báo, cảnh báo tác động thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn đến các ngành nghề như nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt…
Bên cạnh đó, phối hợp với Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam theo dõi chặt chẽ tình hình xả nước từ các hồ chứa ở thượng lưu sông Mê Kông; gia tăng đàm phán với các nước thượng nguồn sông Mê Kông trong phương thức sử dụng nước, đặc biệt chú trọng việc xây dựng hồ đập, đập thủy điện.
Tổng cục Khí tượng thủy văn cũng đã đề xuất bổ sung thêm mạng lưới trạm quan trắc dòng chảy và quan trắc mặn tại đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ưu tiên lắp đặt các thiết bị tự động để có số liệu quan trắc kịp thời, đầy đủ; tập trung phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn; thực hiện nội dung Xây dựng hệ thống giám sát nguồn nước dự báo, cảnh báo hạn hán và xâm nhập mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, cần nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học vào công tác dự báo, cảnh báo hạn hán, xâm nhập mặn; tăng cường nghiên cứu những vấn đề quy mô lớn, quy mô toàn cầu có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến diễn biến thời tiết và khí hậu Việt Nam; nghiên cứu xây dựng hệ thống phân tích, dự báo, cảnh báo hạn hán, xâm nhập mặn cho vùng đồng bằng sông Cửu Long; ứng dụng sản phẩm viễn thám giám sát hạn hán, giám sát hoạt động của các hồ chứa xuyên biên giới; phối hợp với các địa phương điều tra, khảo sát, đo đạc và tập hợp thống nhất cơ sở dữ liệu về rủi ro hạn hán, xâm nhập mặn phục vụ dự báo, cảnh báo.