BVR&MT – Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức họp về “Cơ chế chính sách đẩy mạnh triển khai trồng rằng gỗ lớn, rừng đa dụng, ứng dụng khoa học công nghệ trong lâm nghiệp”.
Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp, diện tích rừng hiện nay của Việt Nam là 14,74 triệu ha, trong đó rừng trồng chiếm 4,57 triệu ha (31%), rừng tự nhiên chiếm 10,17 triệu ha (69%). Trong chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2021-2030, tỷ lệ che phủ rừng chiếm từ 42-43%, giá trị sản xuất tăng từ 5 – 5,5%, mục tiêu đến năm 2025 giá trị xuất khẩu đạt 18-20 tỷ USD, năm 2030 đạt 23-25 tỷ USD.
Hiện nay, có hơn 6.000 doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản, các doanh nghiệp lớn chủ yếu tập trung tại Đông Nam Bộ tại 3 Thành phố là Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương. Trước đây, nguyên liệu sản xuất Việt Nam phải nhập hoàn toàn từ các nước, nhưng đến nay số liệu nhập khẩu đã dần giảm, Việt Nam đã dần tự chủ động được nguồn nguyên liệu. Đây được coi là một thành công trong việc cải thiện giống, đặc biệt là các giống keo, bạch đàn, cao su, các loại thân gỗ đem lại giá trị xuất khẩu cao.
Hiện nay, mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam là dăm gỗ và viên nén. Đây là 2 mặt hàng có con số tăng trưởng rất lớn, cần chú trọng để tìm hiểu và phát triển hơn nữa sang các thị trường tiềm năng.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị, các cơ chế chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp trồng rừng gỗ lớn, tích hợp các giá trị của rừng là rất cần thiết. Cho đến nay, có một số các cơ chế chính sách từ những năm trước chưa được tháo gỡ mặc dù đã nhiều lần được họp bàn và tìm phương hướng. Đây chính là điểm còn ách tắc cần phải nhanh chóng tháo gỡ để ngành thuận lợi hơn và phát triển tốt hơn. Bên cạnh đó, chúng ta cần thắt chặt liên kết các đơn vị trong ngành để công việc và thủ tục thông suốt hơn. Việc quy hoạch là vô cùng cần thiết, quy hoạch vùng, quy hoạch nguồn nguyên liệu, quy hoạch đúng đối tượng để tạo ra sự liên kết với nhau.
Đại diện Cục Kiểm lâm ông Nguyễn Hữu Thiện – Cục trưởng cho biết; hiện nay chúng ta có gần 7 triệu ha là rừng nhà nước. Số người làm trong ngành lực lượng kiểm lâm chuyên trách hiện nay là 12 nghìn người trong đó có 10 nghìn người là lực lượng chuyên trách của nhà nước, bên cạnh đó cũng có khoảng 11 nghìn người là lực lượng kiểm lâm tự phát. Do vậy về lực lượng bảo vệ rừng còn mỏng trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn. Công tác bảo vệ rừng rất phức tạm nhất là ở vùng biên giới, vùng rừng phòng hộ quốc gia, thực tế đã có rất nhiều những vụ việc chống đối gây hậu quả nghiêm trọng. Chúng tôi đề nghị các cấp ban, ngành có những chính sách hợp lý, động viên tích cực đến các cán bộ, người lao động làm công tác ở những vùng rừng trọng điểm, để chúng tôi cống hiến và bảo vệ rừng ngày càng tốt hơn.
Hậu Thạch