BVR&MT – COP26 sẽ là nơi các nước cùng nhau đưa ra những cam kết mới về cắt giảm khí thải, cập nhật từ lần cam kết đầu tiên vào năm 2015 vốn bị cho là “chưa đủ mạnh.”
Nếu đại dịch COVID-19 không xuất hiện, 2020 có lẽ là một năm quan trọng đối với cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
Hội nghị các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), dự định diễn ra tháng 11 tại Glasgow (Anh), được kỳ vọng là cơ hội để đạt bước đột phá sau COP25 năm ngoái bị đánh giá là đáng thất vọng.
Tuy nhiên, cùng những gián đoạn và biến động trên nhiều phương diện kinh tế-xã hội do COVID-19, COP26 đã bị hoãn ít nhất cho tới năm 2021.
COP26 không phải là sự kiện đa phương duy nhất bị COVID-19 cản bước tiến trong năm 2020. Tuy nhiên, điều đáng nói là COP26, cũng như năm 2020, trong suốt nửa thập niên qua đã được kỳ vọng sẽ trở thành một sự kiện bản lề, một thời khắc bước ngoặt đối với phong trào chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
COP26 sẽ là nơi các nước cùng nhau đưa ra những cam kết mới về cắt giảm khí thải, cập nhật từ lần cam kết đầu tiên vào năm 2015 vốn bị cho là “chưa đủ mạnh,” theo đúng chu kỳ 5 năm đặt ra trong Hiệp định Paris về biến đối khí hậu.
Bên cạnh đó, COP26 cũng được mong đợi sẽ giải quyết những vấn đề còn để lại từ COP25, đặc biệt là vấn đề đặt ra quy tắc cho thị trường carbon toàn cầu và tín dụng carbon.
Các kỳ COP22 đến COP25 từ năm 2016-2019 đều được coi là bước đệm nhằm đặt nền móng cho COP26 của năm 2020.
Thế nhưng, sự xuất hiện của virus SARS-CoV-2 và đại dịch COVID-19 đã khiến Liên hợp quốc phải thông báo dời ngày tổ chức COP26 sang tháng 11/2021 và với quyết định này, nhiều nước thay vì đệ trình Cam kết tự nguyện đóng góp cắt giảm khí thải nhà kính (NDC) mới theo đúng kế hoạch vào cuối năm 2020, đã trì hoãn theo COP26 sang năm sau.
Theo Climate Watch, cho tới nay mới có 22 quốc gia cập nhật NDC. Quay cuồng trong cuộc khủng hoảng kép về y tế và kinh tế, nhiều nước đã phải gác lại những cam kết về chống biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, dù COP26 không thể diễn ra như đã định, song một hội nghị khác do Liên hợp quốc cùng Anh và Pháp đồng bảo trợ đã được tổ chức trực tuyến ngày 12/12, đúng 5 năm ngày ký Hiệp định Paris (12/12/2015)…
Nhiều nền kinh tế đã sử dụng diễn đàn này để công bố những cam kết khí hậu mạnh mẽ.
Liên minh châu Âu (EU) đưa ra mục tiêu tới năm 2030 cắt giảm 55% lượng khí thải, tăng so với mức 40% trước đây, Vương quốc Anh thông báo vào năm 2030 sẽ cắt giảm 68% khí thải so với mức năm 1990, Trung Quốc cam kết cắt giảm 25% và đặt mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2060.
Ít nhất 15 nước đưa ra NDC mạnh mẽ hơn. Thủ tướng New Zealand Jacinda Ardern cũng tuyên bố “tình trạng khẩn cấp về khí hậu” để thúc đẩy các hành động quyết liệt trong nước.
Song câu chuyện về chống biến đổi khí hậu luôn là một bức tranh sáng tối đan cài. Brazil và Nga đưa ra NDC mới nhưng không đặt mục tiêu cắt giảm khí thải cao hơn, Indonesia và Australia tuyên bố sẽ không tăng mức cắt giảm, trong khi một số nước phát thải lớn, như Ấn Độ, cam kết đưa ra mục tiêu cao hơn nhưng chưa thực hiện.
Nhà hoạt động khí hậu người Thụy Điển Greta Thunberg đã thẳng thắn bày tỏ: “Những hành động mà thế giới cần vẫn chưa xuất hiện.”
Bộ trưởng Doanh nghiệp Anh, đồng thời là Chủ tịch COP26, Alok Sharma cũng thừa nhận: “Liệu chúng ta đã làm đủ để giữ thế giới không vượt quá mức tăng nhiệt 1,5 độ C chưa, để bảo vệ con người và thiên nhiên khỏi tác động của biến đổi khí hậu? Nếu chúng ta phải thành thật với bản thân, câu trả lời hiện nay là “Chưa.”
“Chưa đủ” dường như là cụm từ luôn đồng hành với câu chuyện chống biến đổi khí hậu. Luôn tồn tại độ vênh giữa kỳ vọng của giới vận động cùng cảnh báo của giới khoa học với thực tế hành động của các chính phủ, đồng thời việc thu hẹp khoảng cách này chưa bao giờ đủ nhanh và dứt khoát như mong muốn.
Nhưng 2020 là năm thế giới thực sự cần nhìn nhận những cảnh báo khoa học với một thái độ thật sự nghiêm túc.
Tình hình khi hậu toàn cầu năm 2020 chính là những bằng chứng khó có thể ngó lơ về những kịch bản thảm họa tự nhiên vượt ngoài tầm kiểm soát nếu không sớm chặn lại tình trạng ấm lên toàn cầu.
Năm 2020, Đại Tây Dương có tổng cộng 30 cơn bão, con số kỷ lục từ trước tới nay. Gần như toàn bộ đường bờ biển của Mỹ đều hứng chịu các cơn bão nhiệt đới.
Châu Á-Thái Bình Dương, vốn là khu vực dễ bị thảm họa nhất thế giới, cũng phải đối phó với số lượng kỷ lục các thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu.
Liên đoàn Chữ thập Đỏ và Trăng lưỡi liềm Đỏ quốc tế (IFRC) đã phải ứng phó với 24 cuộc khủng hoảng liên quan đến khí hậu ở khu vực này, riêng Đông Nam Á là 15 lần.
Trong khi đó, tập đoàn bảo hiểm Swiss Re của Thụy Sĩ cho biết thảm họa tự nhiên từ đầu năm đến nay ước tính gây thiệt hại 175 tỷ USD, cao hơn nhiều so với mức thiệt hại 139 tỷ USD trong năm ngoái.
Riêng tại Việt Nam, người dân cũng phải hứng chịu một năm 2020 thiên tai dị thường, khốc liệt, “lũ chồng lũ, bão chồng bão” gây thiệt hại nghiêm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống và sản xuất của hàng triệu người.
Theo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã xảy ra 16 loại hình thiên tai, với 13 cơn bão trên Biển Đông; 264 trận dông, lốc, mưa lớn trên 49 tỉnh, thành phố; 120 trận lũ quét, sạt lở đất; đặc biệt là đợt mưa lũ lớn lịch sử từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 11 tại khu vực Trung Bộ…
Trong gần 2 tháng, khu vực duyên hải miền Trung đã chịu ảnh hưởng dồn dập của 9 cơn bão (từ số 5 đến số 13) và 2 áp thấp nhiệt đới, trong đó, cơn bão số 9 đã đạt đến cấp siêu bão và được đánh giá mạnh nhất trong 20 năm qua.
Tính đến ngày 4/12, thiên tai đã làm 356 người chết, mất tích và 876 người bị thương. Ước tính thiệt hại hơn 35.181 tỷ đồng.
Giới khoa học khẳng định nếu tiếp tục không có hành động, thế giới sẽ phải chấp nhận làm quen với tình trạng thảm họa tự nhiên ngày càng dày đặc và khắc nghiệt, thậm chí vượt quá mức kiểm soát và ứng phó của con người.
Hiệp định Paris đã đặt ra mục tiêu kiểm soát mức tăng nhiệt độ toàn cầu không vượt quá mức 2 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Theo báo cáo của Chương trình Khí hậu Liên hợp quốc (UNEP), để đạt được mục tiêu này, thế giới cần cắt giảm khí thải nhà kính 7,6% mỗi năm trong suốt 10 năm tiếp theo.
Con số 7,6% rất đáng chú ý khi cân nhắc tới đánh giá thường niên công bố ngày 11/12 của Global Carbon Project, cho biết lượng phát thải khí nhà kính trong năm nay đã giảm 7%, mức cao nhất trong lịch sử, chủ yếu do tác động từ đại dịch COVID-19. Nhưng các lệnh phong tỏa và hạn chế đi lại sẽ không phải và không thể là giải pháp bền vững để hạ mức nhiệt toàn cầu.
Nhiều năm qua, các chuyên gia khoa học và kinh tế đã đưa ra phương án kinh tế xanh như một hướng đi triển vọng để đạt được mục tiêu 1,5 độ C mà không gây gián đoạn đột ngột đối với tình hình kinh tế-xã hội.
Kinh tế xanh bao gồm các biện pháp như đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các công nghệ không phát thải, giảm trợ cấp nhiên liệu hóa thạch, đóng cửa các nhà máy than đá và thúc đẩy các giải pháp thiên nhiên như trồng rừng và bảo tồn thiên nhiên.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế toàn cầu, khái niệm kinh tế xanh đã được chuyển thành phục hồi xanh, với hàm ý kêu gọi các chính phủ tránh coi nhẹ các chương trình phát triển bền vững trong cuộc đua phục hồi kinh tế sau đại dịch.
Nhớ lại giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính 2008, các nước chạy đua phục hồi kinh tế khiến các ngành công nghiệp hoạt động hết công suất và đẩy lượng phát thải khí nhà kính tăng vọt trong giai đoạn 2009-2010.
Một kịch bản tương tự có thể đã bắt đầu diễn ra. Nhóm các nền kinh tế phát triển hàng đầu G20 đã cam kết hơn 233 tỷ USD cho các lĩnh vực có liên quan tới tiêu thụ và sản xuất nhiên liệu hóa thạch, trong khi đầu tư cho các dự án năng lượng sạch chỉ vào khoảng 150 tỷ USD.
Báo cáo Production Gap 2020 đã chỉ ra một số động thái đáng lo ngại, như cắt giảm thuế nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch ở Argentina, đảm bảo cấp vốn cho dự án đường ống dẫn dầu Keystone XL tại Canada, gói giảm thuế ngắn hạn cho ngành dầu lửa và khí đốt tại Na Uy, hay giảm tiền thuê đất cho ngành dầu lửa và khí đốt và nới lỏng quy định môi trường tại Mỹ.
Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres từng nhấn mạnh các gói phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19 cũng là cơ hội để các nước đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang một tương lai carbon thấp.
Tuy nhiên, ông Guterres cũng cảnh báo hơn 50% gói kích thích và giải cứu kinh tế của các thành viên G20 là chi cho các lĩnh vực liên quan đến khai thác và tiêu thụ năng lượng hóa thạch, thay vì chi cho năng lượng carbon thấp.
Theo UNEP, mặc dù mức khí thải năm nay có giảm, song mức giảm trong ngắn hạn này nhiều khả năng không mang lại tác động dài hạn, Trái Đất vẫn đang tiến tới kịch bản tăng 3 độ C trong thế kỷ này, thậm chí có thể lên tới 4 độ C, bỏ xa mục tiêu đặt ra trong Hiệp định Paris.
Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) cảnh báo năm 2020 đang trở thành một trong 3 năm nóng nhất từng được ghi nhận trên Trái Đất, thậm chí có thể vượt cả mức nhiệt cao kỷ lục vào năm 2016.
Báo cáo cũng chỉ ra hiện có 126 nước, chiếm 51% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, đã thông qua, thông báo hoặc đang cân nhắc cam kết trung hòa khí thải ròng vào giữa thế kỷ 21.
Nếu những cam kết như vậy được thực hiện, nhiệt độ toàn cầu sẽ giảm 0,1 độ C vào năm 2100. Trong khi đó, theo tính toán, các gói phục hồi xanh trên toàn thế giới có thể giúp hạ nhiệt độ khoảng 0,3 độ C.
Có thể thấy cuộc chiến chống biến đổi khí hậu cần nỗ lực và đồng thuận rất lớn từ cộng đồng quốc tế để tiến được những bước rất chậm.
Nhưng dù chậm, thế giới vẫn cần tiến về phía trước, bởi năm 2020 đã hé lộ một tương lai đáng lo ngại về khí hậu nếu nhân loại tiếp tục từ chối hành động.
Tạp chí y khoa chuyên ngành Lancet, khi theo dõi tác động của hiện tượng ấm lên toàn cầu đối với sức khỏe con người, đã chỉ ra mối liên quan giữa các căn bệnh truyền nhiễm như COVID-19 và biến đổi khí hậu, nhấn mạnh rằng biến đổi khí hậu cùng những tác nhân thúc đẩy như đô thị hóa, canh tác nông nghiệp thường có xu hướng xâm phạm vào môi trường sống hoang dã và tạo điều kiện để các mầm bệnh chuyển từ động vật sang người thường xuyên và dễ dàng hơn.
Tổng Thư ký Liên hợp quốc Guterres tuyên bố rằng: “Hàng nghìn tỷ USD cần có để khôi phục kinh tế sau đại dịch COVID là khoản tiền mà chúng ta đang vay của các thế hệ tương lai. Nếu các nước không có các chính sách phù hợp và sử dụng những nguồn lực này một cách hiệu quả, những gói hỗ trợ này sẽ là gánh nặng chồng chất lên các thế hệ mai sau với một hành tinh bị tàn phá.”
Đó là lý do Tổng Thư ký Liên hợp quốc kêu gọi các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới tuyên bố “tình trạng khẩn cấp” về khí hậu tại đất nước của mình cho đến khi đạt được mục tiêu trung hòa carbon, nhằm thúc đẩy những hành động khẩn cấp chống biến đổi khí hậu, bởi bảo vệ khí hậu là trách nhiệm đối với thế hệ tương lai./