BVR&MT – Việt Nam là một trong những điểm nóng về đa dạng sinh học khu vực Ấn Độ – Miến Điện, có mức độ đang dạng sinh học cao với nhiều loài đặc hữu. Theo một báo cáo của WWF năm 2018, có hàng chục loài động, thực vật mới được mô tả trong nước hàng năm. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là một quốc gia có nhiều loài bị đe doạ tuyệt chủng.
Nhằm tăng cường sự tham gia của các bên liên quan trong nỗ lực bảo tồn loài nguy cấp, ngày 22/11, tại Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên và Phát triển phối hợp với Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức cuộc họp tham vấn hoàn thiện “Chiến lược huy động nguồn lực cho bảo tồn loài tại Việt Nam”, đề xuất phương pháp huy động hiệu quả và bền vững các nguồn lực cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi quần thể của các loài hoang dã ở Việt Nam.
Phát biểu khai mạc tại hội nghị, bà Nguyễn Thị Vân Anh, đại diện Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học cho biết: Việt Nam là nước có đa dạng sinh học cao với nhiều loài đặc hữu. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là quốc gia có nhiều loài bị đe dọa tuyệt chủng do các tác động của quá trình phát triển và săn bắn, buôn bán trái phép.
Cụ thể, theo Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (2021), Việt Nam có 348 loài thú, 869 loài chim, 384 loài bò sát, 221 loài lưỡng cư và 2.041 loài cá. Trong đó, 75 (21%) loài thú, 57 (6%) loài chim, 75 (19%) loài bò sát, 53 (24%) loài lưỡng cư và 136 (7%) loài cá được liệt kê là các loài bị đe doạ (thuộc mức Cực kỳ nguy cấp – CR, Nguy cấp – EN hoặc Sắp nguy cấp – VU). Nhiều loài đang bị đẩy đến bờ vực tuyệt chủng và kích thước quần thể của nhiều loài động vật có xương sống đang suy giảm.
Theo cáo của dự án Sáng kiến Thúc đẩy Cam kết Đa dạng sinh học năm 2021 cho thấy, các loài bị ảnh hưởng do mất sinh cảnh sống từ các tác động như phát triển khu dân cư, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khai thác khoáng sản, xây dựng hạ tầng giao thông, các công trình thủy điện. Hai yếu tố ảnh hưởng nhất đến các loài hoang dã là chuyển đổi đất rừng thành đất canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và khai thác gỗ. Mặc dù Chính phủ, các bộ đã có rất nhiều nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề này thông qua các chính sách mới và nhiều dự án bảo tồn được thực hiện trong thời gian qua, tuy nhiên, suy thoái đa dạng sinh học vẫn đang là một thách thức rất lớn, đòi hỏi sự chung tay giải quyết của cả cộng đồng, bao gồm nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự, người dân và đặc biệt là các doanh nghiệp. Do vậy, Việt Nam cần có hành động kiên quyết, mạnh mẽ hơn nhằm ngăn chặn sự suy thoái của các hệ sinh thái tự nhiên và các loài nguy cấp, đặc hữu. Một chiến lược dài hạn và cụ thể sẽ ngăn chặn các nạn săn, bẫy, buôn bán trái phép và có các nỗ lực giúp phục hồi các sinh cảnh, các loài đã bị suy giảm.
Phát biểu tại hội nghị Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên và Phát triển đã cung cấp những số liệu cụ thể về thực trạng suy thái sinh học: Sự thay đổi độ che phủ rừng giai đoạn 2000 – 2018 ở Việt Nam cho thấy diện tích rừng tự nhiên giảm khoảng gần 2.000 km2 (4,42% so với tổng diện tích rừng), rừng ngập mặn giảm 154 km2 (11,49%), rừng hỗn giao giảm 11.095 km2 (32,33%) và rừng ngập nước giảm 1.784 km2 (68,32%). Đất trồng cây ăn quả và rừng trồng đã mở rộng lên tới 17%, tương đương với 10.367 km2; diện tích nuôi trồng thủy sản đã mở rộng khoảng 10%, tương ứng với khoảng 800 km2. Có thể thấy rằng, rừng tự nhiên là sinh cảnh bị tác động nhiều nhất. Đây cũng là nơi cư ngụ của nhiều loài thực vật và động vật hoang dã, trong đó có nhiều loài nguy cấp, quý, hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cao.
Chia sẻ về dự thảo Chiến lược huy động nguồn lực cho nỗ lực bảo tồn các loài nguy cấp, quý hiếm giai đoạn 2022-2030, ông Nguyễn Mạnh Hà, Giám đốc Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên và Phát triển (CCD) cho biết: Mục tiêu của chiến lược nhằm huy động được một cách hiệu quả và bền vững các nguồn lực cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học và phục hồi quần thể của các loài hoang dã ở Việt Nam.
Để thực hiện các mục tiêu đó, dự thảo chiến lược cũng đề ra một số giải pháp huy động nguồn lực tài chính như huy động từ nguồn ngân sách; nguồn xã hội hoá; nguồn hỗ trợ và đầu tư từ nước ngoài thông qua các dự án, chương trình bảo tồn.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng đề xuất cần mở rộng các hình thức chi trả hiện đang áp dụng hiệu quả như chi trả dịch vụ môi trường rừng, hệ sinh thái, tín chỉ carbon; xây dựng các chương trình mục tiêu, các chương trình đầu tư ưu tiên như chương trình mục tiêu quốc gia về đa dạng sinh học, chương trình quốc gia đa dạng sinh học về bảo tồn loài nguy cấp, các hệ sinh thái đặc biệt, chương trình ưu tiên về phục hồi các loài có nguy cơ tuyệt chủng, các hệ sinh thái bị suy thoái.
Cuộc họp tham vấn đã thống nhất đề xuất một số hoạt động ưu tiên nhằm huy động tốt hơn nguồn lực trong bảo tồn các loài hoang dã, nguy cấp, quý hiếm cũng như cách thức tổ chức thực hiện, theo dõi, đánh giá nhằm đảm bảo hiệu quả các hoạt động, với sự nhất trí từ phía đại diện Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học.
Tuyết Lan