BVR&MT – Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) khống chế các trường hợp thu hồi đất, bảo đảm chỉ thu hồi đất trong các trường hợp luật định, không thu hồi đất tràn lan.
Bổ sung trường hợp thu hồi đất để làm ga, cảng
Tiếp tục kỳ họp thứ 6, sáng 3/11, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
Về thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, ông Vũ Hồng Thanh cho biết, một số ý kiến đề nghị bổ sung trường hợp thu hồi đất để làm ga, cảng, công trình thông tin an ninh.
Theo ông Thanh, tiếp thu các ý kiến và trên cơ sở báo cáo số 598/BC-CP, dự thảo luật bổ sung trường hợp này tại khoản 4 Điều 78.
Tiếp đó, nhiều ý kiến cho rằng, quy định tại dự thảo luật liệt kê các trường hợp Nhà nước thu hồi đất rất cứng nhắc và chưa phản ánh đầy đủ và chưa khắc phục được căn cơ các vấn đề bất cập.
Đồng thời đề nghị làm rõ khái niệm, nội hàm dự án phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và nên tiếp cận theo hướng, đó là những dự án phải mang lại lợi ích cho nhân dân.
Những dự án do ngân sách nhà nước thực hiện hoặc được đầu tư theo phương thức công tư; mục đích thực hiện dự án là nhằm mục đích công cộng, không vì mục tiêu lợi nhuận.
Liệt kê rõ các trường hợp thu hồi đất
Có ý kiến đề nghị tách biệt rõ ràng giữa dự án phát triển kinh tế với dự án công cộng vì lợi ích quốc gia; xây dựng khái niệm riêng cho từng mục đích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế, phát triển xã hội; xây dựng tiêu chí nhận diện và phân loại chính xác các loại dự án.
Ý kiến khác đề nghị tiếp tục nghiên cứu mở rộng trường hợp thuộc diện thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội, vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, đây là quy định thể chế hóa Nghị quyết số 18-NQ/TW và Hiến pháp năm 2013, vì vậy, cần hết sức cẩn trọng, tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng để có quy định phù hợp.
Việc này vừa cụ thể về các trường hợp thu hồi đất để xây dựng các dự án, công trình để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, không phân biệt về nguồn vốn, mà khi xem xét tổng thể dự án thì lợi ích quốc gia, công cộng là lợi ích chi phối cần cho sự phát triển của đất nước, của địa phương, đồng thời, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng.
Việc quy định về các trường hợp thu hồi đất tại Luật Đất đai là cụ thể hóa quy định tại Điều 54 Hiến pháp năm 2013 về “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định”.
Quy định theo hướng liệt kê các trường hợp thu hồi đất có ưu điểm rõ ràng cho việc áp dụng thực hiện, đồng thời, khống chế các trường hợp thu hồi đất, bảo đảm chỉ thu hồi đất trong các trường hợp luật định, không thu hồi đất tràn lan.
Bên cạnh đó, dự án, công trình thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 không đồng nghĩa với việc đương nhiên Nhà nước được thu hồi, mà phải đáp ứng điều kiện cần và đủ quy định tại Điều 80 dự thảo Luật.
Cùng với cơ chế chuyển dịch đất đai thông qua việc Nhà nước thu hồi đất, dự thảo Luật tiếp tục quy định về cơ chế chuyển dịch đất đai thông qua việc thỏa thuận giữa những người sử dụng đất về nhận quyền sử dụng đất.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung trường hợp “thu hồi đất để thực hiện các dự án đã được xác định trong quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch tỉnh mà được Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư”.
Dự thảo luật bổ sung theo ý kiến của Chính phủ và chỉnh sửa như sau: “Thực hiện các dự án đã được Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật”.
Quy định như vậy vẫn bảo đảm yêu cầu quy định rõ ràng về điều kiện, tiêu chí thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.