BVR&MT – Khi nghĩ về việc khôi phục một khoảnh đất bị chặt phá, bạn có thể hình dung ra ai đó đang đào lỗ và trồng hạt giống hoặc cây non. Trồng cây là quan trọng (nếu được thực hiện đúng cách) nhưng trong nhiều trường hợp sẽ tốt và rẻ hơn nếu để cây tự phát triển và rừng tự phục hồi mà không cần sự trợ giúp của con người.
Trên thực tế, có rất nhiều cách tiếp cận để phục hồi cảnh quan rừng. Biện pháp đơn giản nhất là để cây tái sinh tự phát tức cây cối và các thảm thực vật bản địa khác mọc lại một cách tự nhiên trên đất. Điều này cũng giống như những gì diễn ra sau một vụ cháy rừng thông thường vậy: sau một thời gian, những chồi non sẽ nhú lên từ tàn tro và phát triển thành những cây to khỏe mà không cần sự trợ giúp của con người. Ở cách tiếp cận chủ động hơn, mọi người sẽ thu thập hạt giống từ rừng, sau đó sản xuất cây non trong vườn ươm, trồng và duy trì cây trong các khu rừng và vùng đất bị suy thoái. Nằm giữa hai thái cực là một cách tiếp cận đặc biệt đầy hứa hẹn: tái sinh tự nhiên được hỗ trợ (Assisted Natural Regeneration – ANR).
ANR là gì?
Tái sinh tự nhiên được hỗ trợ (ANR) là sự kết hợp giữa trồng chủ động và phục hồi thụ động, trong đó người dân địa phương can thiệp để giúp cây cối và thảm thực vật bản địa phục hồi một cách tự nhiên bằng cách loại bỏ các rào cản và mối đe dọa đối với sự phát triển của chúng dựa trên kiến thức bản địa về đất đai và truyền thống tổ tiên. Chẳng hạn, để ngăn chặn cháy rừng lan rộng, mọi người có thể xây các đường băng cản lửa và dọn sạch tàn dư dưới nền rừng. Để ngăn gia súc gặm nhấm cây non, có thể làm hàng rào ngăn chúng ra ngoài. Để cung cấp cho cây bản địa không gian phát triển, có thể loại bỏ cỏ và cây bụi xâm lấn. Và nếu quá trình tái sinh tự nhiên không làm tăng độ che phủ của cây đủ nhanh hoặc các loài mục tiêu không tự mọc lên, người ta có thể trồng cây một cách chọn lọc để lấp đầy các khoảng trống.
Nghiên cứu cho thấy ANR là một kỹ thuật quan trọng trong bộ công cụ phục hồi hệ sinh thái, một giải pháp dựa vào tự nhiên, vừa hiệu quả về chi phí để khôi phục hàng triệu ha đất, vừa cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái – như nước sạch và đất lành – mà mọi người cần để phát triển.
Lợi ích của ANR?
ANR có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu toàn cầu về khí hậu và đa dạng sinh học bao gồm Thỏa thuận khí hậu Paris, Sáng kiến nghìn tỷ cây xanh và các mục tiêu đầy tham vọng do Chiến dịch Thách thức Bonn đặt ra nhằm khôi phục 350 triệu ha đất bị suy thoái và mất rừng vào năm 2030.
Hơn 60 quốc gia đã cam kết phục hồi 210 triệu ha trong thời gian tới. Con số này thoạt nghe có vẻ to lớn nhưng thực tế chỉ chiếm phần nhỏ trong số hơn 860 triệu ha bao phủ khắp các vùng nhiệt đới – một khu vực có diện tích nhỉnh hơn Brazil và có thể được hưởng lợi từ việc phục hồi rừng. Tuy nhiên, việc đạt được những mục tiêu tham vọng này sẽ không dễ dàng đạt được nếu không nắm rõ sức mạnh và lợi ích của sự tái sinh, cụ thể là ANR với 5 lợi ích sau:
Thứ nhất, cây và rừng có thể được phục hồi bằng cách sử dụng ANR với chi phí trồng cây thấp hơn 1/3, dựa trên ước tính của Viện Tài nguyên Thế giới (WRI).
Thứ hai, ANR có thể phục hồi nhiều đất hơn, nhanh hơn nhiều so với trồng chủ động vì đòi hỏi rất ít sự can thiệp của con người. Ở Niger thuộc vùng Sahel khô hạn của châu Phi, nông dân đã sử dụng ANR để tái sinh hơn 200 triệu cây từ những năm 1980.
Thứ ba, ở những khu vực gia tăng áp lực đối với đất đai, đặc biệt là từ việc chăn thả gia súc và mở rộng nông nghiệp, ANR là cách duy nhất để đảm bảo vùng đất phục hồi mô phỏng hiệu quả môi trường sống bản địa của thực vật và động vật hoang dã địa phương. Khi các chủ trang trại quản lý đất bền vững hơn và chăn thả gia súc hiệu quả hơn mà không làm suy thoái đất, họ có thể rào các khu vực gần các khu bảo tồn đa dạng sinh học để giúp thiên nhiên phục hồi mà không làm tổn hại đến lợi nhuận thu về.
Thứ tư, ANR có thể tạo công ăn việc làm và mang lại thu nhập cho các chủ đất thông qua một số hoạt động bảo vệ khu phục hồi mới như xây dựng hàng rào, tuần tra phòng chống hỏa hoạn, trông coi gia súc, thu thập hạt giống và sản xuất cây con, theo dõi tiến độ. ANR cũng rất hiệu quả về chi phí: khôi phục 21,6 triệu ha chỉ bằng ANR ở Brazil có thể giảm chi phí hành động tới 90,6 tỷ đô la tương ứng 77% so với việc trồng cây.
Cuối cùng, đối với nông dân, người chăn gia súc, chủ trang trại và cộng đồng địa phương, ANR là một vũ khí quan trọng để chống lại biến đổi khí hậu. Nghiên cứu được công bố gần đây cho thấy việc để rừng mọc lại tự nhiên có thể giúp hấp thụ 23% lượng khí thải CO2 của thế giới mỗi năm – con số ước tính cao hơn 32% trên toàn cầu so với ước tính mới nhất của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC). Ví dụ, tái sinh tự nhiên 21,6 triệu ha ở Brazil có thể cô lập nhiều carbon hơn lượng khí thải hàng năm của cả Brazil và Canada cộng lại.
Khi các nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến việc tài trợ cho các giải pháp dựa vào tự nhiên nhằm chống lại khủng hoảng khí hậu thì ANR là một cơ hội không thể tốt hơn.
Khu vực nào nên áp dụng ANR?
ANR không áp dụng trên mọi cảnh quan, điều quan trọng là phải đánh giá bối cảnh địa phương để lựa chọn biện pháp phù hợp. Ví dụ, ANR hoạt động tốt nhất ở những khu vực không bị suy thoái nhiều nhưng được bao quanh bởi tàn tích rừng và những nơi có hạt giống ngủ vùi trong đất. Còn ở những nơi thâm canh và chăn thả quá mức chưa làm đất bị bạc màu hoặc nén chặt thì trồng cây lại thường có ý nghĩa hơn.
Trên thực tế, ANR nên được áp dụng khi có những điều kiện cơ bản được đáp ứng và các chủ đất địa phương được khuyến khích làm điều đó. Thường những nơi áp dụng ANR có chi phí cơ hội thấp hơn để trả lại đất chăn thả hoặc đất trồng trọt cho tự nhiên. Chẳng hạn, nông dân khó có khả năng từ bỏ mảnh đất giàu có nhất và sản xuất nhất của họ trừ khi họ được đền bù nhiều. Điều đó có nghĩa là chủ đất chấp nhận ANR trên mảnh đất không thích hợp cho nông nghiệp, địa hình đồi núi đá, khu vực canh tác gần tàn tích rừng hoặc xa xôi, hẻo lánh hoặc gần khu vực biên giới – nơi sản lượng giảm trong nhiều năm và đất đai không được cày xới trong thời gian gần đây.
Tin vui là Brazil hiện là một trong năm quốc gia có khu vực ưu tiên phục hồi lớn nhất và đã cam kết khôi phục 22 triệu ha vào năm 2030 bằng ANR như một phần của Sáng kiến 20×20 (Initiative 20×20) và Thử thách Bonn. Trên khắp các khu rừng ở Amazon và Đại Tây Dương, hàng triệu ha đất đồng cỏ cũng đang được tái sinh tự nhiên trên đất từng là rừng. Đó là lý do vì sao các chủ đất, chính quyền bang và các nhà nghiên cứu ở Brazil đang nỗ lực thúc đẩy sử dụng và quản lý đất bền vững hơn nhằm giúp cây cối phát triển trở lại.
Làm thế nào để áp dụng hiệu quả ANR?
Hiệp ước phục hồi rừng Đại Tây Dương của Brazil (PACTO) là một ví dụ tuyệt vời mà các quốc gia có thể học hỏi khi xem xét việc áp dụng ANR trên quy mô rộng. Được thành lập vào năm 2009, PACTO đã thúc đẩy ANR là một phần quan trọng trong chiến lược khôi phục 15 triệu ha đất bạc màu vào năm 2050. Và hiện có tới 740.000 ha đang được tái sinh tự nhiên và phục hồi tích cực. Vậy PACTO áp dụng ANR như thế nào?
Bước đầu tiên là xây dựng một liên minh các bên liên quan bao gồm các đơn vị nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ, chính phủ và các công ty tư nhân. Trong đó, những cam kết từ nông dân và chủ đất cùng sự tận tâm của họ chính là chìa khóa để thúc đẩy chương trình phục hồi ở một số cảnh quan.
Ví dụ điển hình về thành công của PACTO là Dự án ươm mầm hy vọng (Projeto Cultivando Esperança) ở bang Parana, miền nam Brazil. Trong một khu vực được chia sẻ bởi một số cộng đồng, bao gồm các nông hộ và nông dân sản xuất nhỏ, tổ chức phi chính phủ Mater Natura đã bắt đầu hỗ trợ tái sinh 265 ha rừng ở trên và xung quanh các bờ sông bằng cách xây dựng hàng rào để bảo vệ cây đang phát triển và trồng các loài cụ thể nhằm làm phong phú đa dạng sinh học. Những lợi ích kinh tế mang lại chính là chìa khóa thành công của chương trình này. Dưới bóng cây, người ta trồng yerba mate – một loại cây bản địa được dùng làm trà và đồ uống phổ biến ở Brazil, Hoa Kỳ và châu Âu. Bằng cách cung cấp nơi cư trú cho loại lâm sản ngoài gỗ quan trọng này, rừng phục hồi đang tạo ra cơ hội thị trường bền vững cho các cộng đồng xung quanh, khuyến khích họ tiếp tục áp dụng ANR.
Mặc dù thành công ở một số nơi nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm để đẩy nhanh quá trình tái sinh tự nhiên được hỗ trợ ở rừng Đại Tây Dương. Gần đây, PACTO đã tìm hiểu rõ hơn lý do tại sao chủ đất lại để các khu vực tái sinh tự nhiên và cách vận động xã hội ủng hộ ANR. Cốt lõi của vấn đề nằm ở việc các chính sách công đã khen thưởng kịp thời các chủ đất áp dụng ANR, chẳng hạn như trợ cấp xây dựng hàng rào và thiết bị kiểm soát hỏa hoạn hoặc đầu tư vào việc thực thi để đảm bảo các khu vực tái sinh tiếp tục phục hồi tốt. Tại bang Espirito Santo nằm ở phía đông nam của Brazil, một chương trình của chính phủ mang tên REFLORESTAR đã trả tiền cho chủ đất nếu họ cải thiện tốt các dịch vụ hệ sinh thái trên khu đất và giúp đất tái sinh một cách tự nhiên. Ngoài ra, chương trình cũng trả tiền cho chủ đất để duy trì các khu vực tái sinh nhằm nâng cao cơ hội thành công lâu dài.
Về giám sát hiệu quả ANR, việc đầu tư vào các nền tảng giám sát như Đài quan sát Phục hồi và Tái trồng rừng của Brazil có thể giúp mọi người biết ANR đang hoạt động ở đâu và nơi nào bị tụt hậu, qua đó các chủ đất và các nhà hoạch định chính sách sẽ điều chỉnh hoạt động và đẩy nhanh tiến độ. Theo kết quả gần đây thì Đài quan sát phát hiện 9 triệu ha của Amazon đang tái sinh một cách tự nhiên mặc dù các vùng đất này cần được bảo vệ khỏi nạn phá rừng nhiều hơn nữa.
Tại Brazil, các bài học kinh nghiệm từ việc theo dõi quá trình tái sinh tự nhiên ở Rừng Đại Tây Dương đã được cung cấp cho việc quản lý các hệ sinh thái khác của nước này. Trong rừng nhiệt đới Amazon, Liên minh Phục hồi ở Amazon cũng lập danh mục hơn 13.000 ha đang được áp dụng ANR thông qua gần 150 sáng kiến.
Tái sinh tự nhiên được hỗ trợ bao gồm một loạt các hoạt động nhằm đẩy nhanh, làm giàu hoặc khuyến khích rừng tái sinh tự nhiên. Đây là cách tiếp cận linh hoạt có thể giúp đạt được nhiều mục tiêu: từ khôi phục các vùng đệm xung quanh các khu bảo tồn đến việc tạo ra các hành lang sinh học (nơi các loài chim và thú rừng có thể tự do đi lại) và các khu rừng thứ sinh đa dạng (nơi hỗn hợp của các loài cây thương mại và bản địa được trồng và thu hoạch bền vững).
Quan trọng nhất, tái sinh tự nhiên được hỗ trợ có thể giúp các quốc gia đạt được các cam kết về khí hậu quốc gia, đa dạng sinh học và phục hồi, đồng thời mang lại giá trị giải trí, nước sạch và cơ hội kinh tế từ các sản phẩm dược liệu, xây dựng, thực phẩm và thủ công từ rừng tái sinh.
Ý Nhi (Theo wri.org)