BVR&MT – Từ năm 2017 đến nay có 3.630 dự án đề nghị chuyển mục đích sử dụng rừng, song Bộ NN&PTNT trình Thủ tướng Chính phủ chỉ xem xét chấp thuận chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng của 133 dự án.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thời gian qua, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ chỉ xem xét chấp thuận chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng các dự án đảm bảo hồ sơ đúng quy định pháp luật, thực sự cấp thiết, hiệu quả kinh tế-xã hội-môi trường và các dự án phục vụ quốc phòng-an ninh.
Thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 08/8/2017 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, từ năm 2017 đến nay, các Bộ, ngành trung ương và địa phương đã tổ chức rà soát hồ sơ, kết hợp với kiểm tra thực địa đối với 3.630 dự án đề nghị chuyển mục đích sử dụng rừng.
Tổng diện tích đề nghị là 183.740ha; trong đó rừng tự nhiên 39.133ha, rừng trồng 74.242ha, đất chưa có rừng 13.816ha, diện tích ngoài quy hoạch 3 loại rừng 56.550ha.
Trong số trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Thủ tướng Chính phủ chỉ xem xét chấp thuận chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng 133 dự án, chiếm 3,66% dự án đề xuất; với diện tích 3.325ha, chiếm 1,81% diện tích đề xuất (rừng tự nhiên 1.581ha, rừng trồng 1.582ha, đất chưa có rừng 164ha), trong các dự án này, không có dự án mở mới xây dựng công trình thủy điện.
Như vậy, việc kiểm soát chặt chẽ chuyển mục đích sử dụng rừng đã góp phần bảo vệ diện tích rừng hiện có, nhất là rừng tự nhiên.
Tất cả các dự án có chuyển mục đích sử dụng rừng đều phải thực hiện nghĩa vụ trồng rừng thay thế theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, việc bảo vệ và phát triển rừng trong thời gian qua đã đạt được kết quả quan trọng.
Tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 39,7% năm 2011 lên 41,89% năm 2019. Rừng tự nhiên được quản lý chặt chẽ và tăng về diện tích nhờ khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, phục hồi.
Diện tích rừng trồng sản xuất tăng nhanh, góp phần phát triển ngành kinh tế lâm nghiệp nhanh và nâng cao thu nhập đời sống người dân.
Về rừng và tiêu chí xác định rừng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, đã được quy định chi tiết trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 và Luật Lâm nghiệp năm 2017 cũng như các nghị định, thông tư hướng dẫn thực thi luật.
Theo đó, cây hạt tiêu, cây càphê không được tính tỷ lệ che phủ rừng; cao su là cây đa mục tiêu, nếu trồng trên diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp mới được tính vào tỷ lệ che phủ rừng.
Cũng theo các luật trên, việc kiểm kê rừng sẽ do ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện tại địa phương; ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt, công bố kết quả và Tổng cục Lâm nghiệp sẽ tổng hợp, trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt và công bố kết quả kiểm kê rừng toàn quốc.
Hàng năm, các địa phương, đơn vị thực hiện rà soát, cập nhật kết quả theo dõi diễn biến rừng theo đơn vị hành chính của 60 tỉnh, 550 huyện, 6.427 xã có rừng đối với 1.104.578 chủ rừng, 7.100.849 lô rừng.
Kết quả về kiểm kê rừng từ năm 2011 đến 2019 cho thấy, diện tích rừng tăng 1.094.156ha, từ 13.515.064ha năm 2011 lên 14.609.220ha vào năm 2019, trung bình mỗi năm tăng 121.684ha.
Tỷ lệ che phủ rừng tăng tương ứng là 2,19%, từ 39,7% năm 2011 lên 41,89% vào năm 2019, bình quân mỗi năm tăng 0,24%.
Qua đây cũng cho thấy, việc bảo vệ rừng có nhiều tiến bộ, số vụ vi phạm quy định của pháp luật và diện tích rừng bị thiệt hại giảm đáng kể trong giai đoạn 2011-2019.
Năm 2011 xảy ra 29.935 vụ thì năm 2019 xảy ra 10.731 vụ vi phạm, giảm 19.204 vụ, tương ứng giảm 64,15%.
Bên cạnh đó, diện tích rừng bị thiệt hại từ 3.782ha năm 2011 (cháy rừng 1.688ha, phá rừng trái pháp luật 2.094ha) xuống 2.575ha năm 2019 (cháy rừng 1.997ha, phá rừng 578ha), giảm 1.207ha, tương ứng giảm 31,91%.
Tuy có nhiều tiến bộ nêu trên, nhưng việc bảo vệ rừng vẫn còn tồn tại như tình trạng phá rừng tự nhiên trái pháp luật diễn ra, một số địa phương còn điểm nóng về phá rừng, gây bức xúc trong dư luận và nhân dân.
Nguyên nhân là do tình trạng di dân tự do vẫn còn diễn ra ở một số nơi, người dân phá rừng để lấy đất trồng rừng, chuyển sang trồng cây nông nghiệp, cây công nghiệp; khai thác gỗ có giá trị thương mại cao tại một số khu rừng tự nhiên còn gỗ quý.
Chính quyền cơ sở ở một số nơi còn thiếu kiên quyết để ngăn chặn việc phá rừng. Đầu tư cho việc bảo vệ rừng còn thấp, kết cấu hạ tầng lâm nghiệp yếu kém, bất cập.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, biến động tăng diện tích rừng nhờ việc trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh đủ tiêu chí thành rừng.
Hiện, chất lượng rừng tự nhiên thấp, chỉ 15% diện tích rừng giàu, 35% diện tích rừng trung bình, 50% diện tích rừng nghèo, nghèo kiệt và còn suy giảm ở nhiều nơi.
Việc bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng gặp nhiều khó khăn; đời sống của người làm lâm nghiệp còn nhiều khó khăn, hạ tầng lâm nghiệp yếu kém.
Trước biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng nhận thấy, ngành lâm nghiệp phải thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp tiếp tục quản lý chặt chẽ, bảo vệ toàn bộ diện tích rừng tự nhiên hiện có.
Ngành phải tăng cường xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật; kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác, nhất là để thực hiện các dự án phát triển kinh tế-xã hội, thủy điện, không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế trước mắt thiếu bền vững.