Công bố kết luận thanh tra về khai thác khoáng sản ở miền núi phía Bắc
BVR&MT – Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo: Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang kiểm điểm trách nhiệm của các tập thể, cá nhân qua các thời kỳ đã để xảy ra các sai phạm.
Ngày 16/7, Thanh tra Chính phủ ban hành thông báo kết luận thanh tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn các tỉnh Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang (giai đoạn 2011-2017).
Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh trên tổ chức kiểm điểm và chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan kiểm điểm trách nhiệm của các tập thể, cá nhân qua các thời kỳ để xảy ra các tồn tại, khuyết điểm, sai phạm nêu tại kết luận thanh tra.
Căn cứ vào kết quả kiểm điểm, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh có biện pháp xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý phù hợp đối với những tập thể, cá nhân trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Nợ, chậm nộp hàng chục tỷ đồng phí bảo vệ môi trường
Theo kết luận thanh tra, tại Yên Bái, thời điểm thanh tra, các dự án còn nợ phí bảo vệ môi trường với tổng số tiền là hơn 6,3 tỷ đồng.
Đến hết năm 2019, còn 73 điểm mỏ nợ, chậm nộp tiền ký quỹ với tổng số tiền là hơ 45 tỷ đồng.
Tại Cao Bằng, đến thời điểm thanh tra (tháng 10/2018), các dự án khai thác khoáng sản (trong đó có một số mỏ hết hạn giấy phép khai thác, đang làm thủ tục đóng cửa mỏ) còn nợ tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường là 5 tỷ đồng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn nợ phí bảo vệ môi trường với số tiền 3 tỷ đồng.
Tại tỉnh Bắc Kạn, kết luận chỉ ra, các doanh nghiệp vẫn còn nợ 35 tỷ đồng phí bảo vệ môi trường. Tại 6 dự án được thanh tra còn có một số hạng mục công trình bảo vệ môi trường chưa hoàn thành hoặc chưa đảm bảo về kích thước, yêu cầu theo báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường đã được phê duyệt.
Tương tự, tại tỉnh Hà Giang, đến thời điểm thanh tra, vẫn còn 26 dự án chưa nộp đủ số tiền ký Quỹ bảo vệ môi trường với tổng số tiền 38 tỷ đồng; 17 dự án nợ phí bảo vệ môi trường với tổng số tiền 1,5 tỷ đồng.
Tại tỉnh Lai Châu, trên địa bàn tỉnh vẫn còn 21 dự án không lập đề án cải tạo, phục hồi môi trường; 21 dự án không nộp, còn nợ tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường; 7 dự án nợ phí bảo vệ môi trường.
Tuyên Quang, tại thời điểm thanh tra, việc để 24 dự án nợ tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường với số tiền 4,1 tỷ đồng; 22 dự án còn nợ phí bảo vệ môi trường với số tiền 4,1 tỷ đồng.
Nhiều thiếu sót trong thẩm định, phê duyệt báo cáo tác động môi trường
Tại tỉnh Yên Bái, kết luận chỉ ra, việc lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường, đề án cải tạo phục hồi môi trường, có một số trường hợp chủ đầu tư và đơn vị tư vấn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường chưa nhìn nhận, đánh giá đầy đủ những khó khăn về địa hình nên bố trí công trình bảo vệ môi trường chưa phù hợp, tính khả thi chưa cao.
Trong khi đó, hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng chưa đánh giá đầy đủ, toàn diện khó khăn về địa hình để yêu cầu đơn vị tư vấn, chủ đầu tư điều chỉnh cho phù hợp, dẫn đến có một số công trình không thực hiện được theo báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt.
Trong số dự án thanh tra, có 8 cơ sở mặc dù chưa được cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành nhưng đã tiến hành khai thác.
Ngoài ra, trước khi đưa dự án vào khai thác, cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm kiểm tra, xác nhận việc hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường theo quy định.
Tuy nhiên, có một số dự án đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh cấp giấy xác nhận hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường trước khi vận hành, nhưng kết quả kiểm tra thực tế cho thấy còn có dự án có công trình bảo vệ môi trường được xây dựng nhưng không đầy đủ về hạng mục hoặc kích thước chưa đạt yêu cầu theo báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt.
Tương tự, tại Cao Bằng, quá trình lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường tại một số dự án có chất lượng chưa tốt; đơn vị tư vấn chưa xác định được hết các yếu tố gây tác động xấu đến môi trường, một số phương án xử lý môi trường chưa phù hợp nhưng hội đồng thẩm định chưa kịp thời phát hiện dẫn đến một số nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt còn thiếu tính khả thi khi thực hiện trong thực tế.
Bên cạnh đó, có 14 mỏ chưa có quyết định cho thuê đất của Ủy ban Nhân dân tỉnh, trong đó có 2 mỏ chưa khai thác, chủ dự án đã làm hồ sơ đóng cửa mỏ, 2 mỏ tạm dừng khai thác, 5 mỏ chưa khai thác do chưa giải phóng được mặt bằng, 5 mỏ đang hoạt động.
Việc Ủy ban Nhân dân các huyện và Sở Tài nguyên và Môi trường để các đơn vị tự thuê, tự chuyển đổi hoặc chuyển nhượng đất trồng lúa của người dân để sử dụng vào hoạt động khoáng sản nhưng chưa có xác nhận về sự phù hợp quy hoạch sử dụng đất đối với hoạt động khoáng sản.
Kết luận cũng chỉ ra, có 2 dự án (Mỏ Thua Phia, huyện Trùng Khánh và Mỏ Chì kẽm Bản Bó, huyện Bảo Lâm) chưa hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường, chưa được cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành nhưng vẫn tiến hành khai thác; 5 dự án thay đổi vị trí các hạng mục như trạm nghiền, bãi thải, bãi tập kết vật liệu… so với báo cáo bảo vệ môi trường đã được phê duyệt nhưng chủ đầu tư chưa báo cáo bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, chấp thuận để triển khai.
Đến thời điểm thanh tra (tháng 10/2018), trên địa bàn tỉnh Cao Bằng còn 22 điểm mỏ giấy phép khai thác khoáng sản đã hết hạn nhưng chủ đầu tư dự án chưa lập đề án đóng cửa mỏ.
Cá biệt, có mỏ đã có quyết định phê duyệt đề án đóng của mỏ, tuy nhiên chủ đầu tư chưa thực hiện, cơ quan chuyên môn của tỉnh thiếu kiểm tra, đôn đốc như: Mỏ mangan Kha Mon, xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh của Công ty Cổ phần khoáng sản NIKKO Việt Nam; đã có Quyết định số 554/QĐ-UBND ngày 16/5/2018 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng về đóng cửa mỏ, trong đó quy định thời gian đóng cửa mỏ là 5 tháng kể từ ngày quyết định có hiện lực, tuy nhiên đến thời điểm kiểm tra (10/2018), đơn vị chưa thực hiện.