BVR&MT – Sáng 28/5, Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ và thẩm tra về quyết định đầu tư “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”, giai đoạn 2021-2030 (Chương trình).
Cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội
Tờ trình của Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến trình bày cho biết về tính cần thiết cho việc thực hiện đầu tư Chương trình.
Nước ta có 53 dân tộc thiểu số với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn sinh thủy, gắn với các công trình thủy điện quốc gia vừa cung cấp điện, vừa cung cấp nước sản xuất, sinh hoạt cho vùng hạ du và khu vực đồng bằng.
Tuy nhiên, hiện nay vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, KT-XH phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Chính phủ cho rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do vùng đồng bào DTTS&MN chủ yếu là núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng KT-XH kém nhất cả nước, xuất phát điểm rất thấp; biến đổi khí hậu, sự cố môi trường diễn ra nghiêm trọng và khó lường… Chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa lớn nên rất khó khăn để thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển KT-XH.
Chính sách hỗ trợ phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN tuy đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng còn nhiều đầu mối xây dựng, quản lý, theo dõi; nguồn lực phân tán, dàn trải; chưa phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp; chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của vùng, phát huy nội lực của đồng bào để đẩy mạnh phát triển toàn diện vùng đồng bào DTTS&MN.
Giải pháp quan trọng nhất
Theo Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến, việc xây dựng Chương trình là giải pháp quan trọng nhất, quyết định việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đã được Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019. Đồng thời, Chương trình sẽ góp phần tích cực để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc hiện nay.
Theo đó, đối tượng điều chỉnh của Chương trình là xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn.
Chương trình thực hiện ở địa bàn vùng DTTS&MN là các xã, thôn có tỷ lệ hộ DTTS từ 15% trở lên. Cụ thể như sau: Địa bàn đặc biệt khó khăn (xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn) là các xã, thôn có tỷ lệ hộ nghèo cao, KT-XH chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạ tầng cơ sở yếu kém, nhất là về giao thông, điều kiện khám chữa bệnh, học tập của người dân còn nhiều khó khăn,… Các xã thôn trên sẽ được Nhà nước ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo sinh kế, phát triển nguồn nhân lực và các chính sách đảm bảo an sinh xã hội cho con người tiếp cận các dịch vụ cơ bản, từng bước thu hẹp khoảng cách so với các vùng phát triển.
Địa bàn còn khó khăn (xã khu vực II): Là các xã có đông đồng bào DTTS sinh sống thành cộng đồng, còn thiếu hụt một hoặc một số điều kiện về cơ sở hạ tầng và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Đối với các xã khu vực II, Nhà nước sẽ hỗ trợ tạo sinh kế, đầu tư bổ sung một phần hạ tầng còn thiếu hụt, chủ yếu là thực hiện các chính sách đối với con người.
Địa bàn bước đầu phát triển (xã khu vực I): Là các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, các xã có tỷ lệ hộ nghèo dưới 10%. Đối với các xã khu vực I, cơ bản để thực hiện chính sách đối với người thuộc hộ nghèo, cận nghèo.
Chương trình đặc thù, tích hợp hơn 100 chính sách dân tộc
Thời gian thực hiện Chương trình là 10 năm (2021-2030), chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 2021-2025 và giai đoạn 2026-2030.
Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2021-2025 tối thiểu 137.664,95 tỷ đồng. Trong đó ngân sách Trung ương tối thiểu 104.954,01 tỷ đồng, vốn đầu tư phát triển tối thiểu 50.629,16 tỷ đồng. Tổng vốn thực hiện giai đoạn 2026-2030 dự kiến 134.270,70 tỷ đồng.
Thẩm tra của Hội đồng Dân tộc do Chủ nhiệm Hà Ngọc Chiến trình bày cho biết, Hội đồng Dân tộc cơ bản tán thành với sự cần thiết xây dựng Chương trình như Tờ trình của Chính phủ. Đây là một chương trình có tính đặc thù không chỉ phát triển KT-XH, mà còn tích hợp thực hiện hơn 100 chính sách dân tộc.
Nếu tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình sẽ giải quyết được những bất cập, hạn chế trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay, tạo cơ hội mới cho vùng đồng bào DTTS&MN phát triển, toàn diện, bền vững KT-XH, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển, thu nhập của đồng bào DTTS so với bình quân chung của cả nước.
Hội đồng Dân tộc cho rằng, việc Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt Chương trình là chấp hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; để cụ thể kết luận số 65-KL/TWcủa Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; thể chế hóa khoản 5 Điều 70 Hiến pháp 2013 Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước; cơ bản phù hợp với Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý nợ công. Chương trình được xây dựng bảo đảm về cơ sở pháp lý và thực tiễn, phù hợp, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Trên cơ sở đó, Hội đồng Dân tộc cho rằng, cần đẩy mạnh việc phân cấp và nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương; thực hiện công khai, dân chủ, đảm bảo sự tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng và người dân trong các khâu thực hiện Chương trình; phát huy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào DTTS; thực hiện phương châm “Dân cần, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng lợi”,“Xã, thôn có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập”.