BVR&MT – Công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo có vai trò hết sức quan trọng trong quản lý khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. Thời gian qua, công tác này đã cung cấp các số liệu quan trọng về hiện trạng, dự báo tiềm năng tài nguyên, môi trường biển, phục vụ công tác lập quy hoạch, kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên, khoáng sản biển, góp phần phát triển kinh tế biển bền vững. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến định hướng quy hoạch không gian biển.
Công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã được thể hiện trong các chiến lược, chính sách về biển thời gian qua. Ngày 1-3- 2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 47/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên – môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó khẳng định, công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên, môi trường biển phải đi trước một bước để bảo đảm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc quy hoạch và đường lối, chính sách phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng và an ninh vùng biển. Đến nay, 45 dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt triển khai, trong đó có 22 dự án đã hoàn thành, bước đầu cung cấp những số liệu quan trọng, phục vụ trực tiếp cho công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ở một số ngành và địa phương ven biển. Ngày 9-2-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã khẳng định, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển phải đi trước một bước làm cơ sở khoa học cho phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh quốc phòng. Ngày 6-9-2013,Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1570/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó, ưu tiên công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển. Ngày 11-5-2016, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 798/QĐ-TTg ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sáu dự án về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển.
Thời gian qua, các phát hiện quan trọng về tiềm năng biển như khoáng sản vật liệu xây dựng, khoáng sản titan ven biển, kim loại đáy biển, nhất là việc phát hiện thêm các khu vực có biểu hiện khí hydrate, khu vực chứa dầu khí, có giá trị lớn trong phát triển kinh tế biển và góp phần bảo đảm an ninh năng lượng. Các dữ liệu về địa chất công trình quanh các đảo, bãi ngầm và một số khu vực ven bờ là cơ sở để thiết kế, bố trí, xây dựng các công trình phòng thủ trên biển. Các dữ liệu về hiện trạng, tiềm năng tài nguyên đất, tài nguyên nước mặt, tài nguyên nước dưới đất tại một số khu vực ven biển và một số đảo; xác lập được các quy luật xói lở, bồi tụ cửa sông, ven biển có giá trị phục vụ phòng, chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên, môi trường biển, phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng tại vùng cửa sông, ven biển trên cả nước. Nhiều kết quả của công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển được sử dụng trong việc xây dựng quy hoạch sử dụng biển, quản lý tổng hợp đới bờ, cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong công tác điều tra cơ bản phục vụ quy hoạch không gian biển, quy hoạch khai thác sử dụng biển, bảo vệ môi trường biển và ứng phó biến đổi khí hậu. Đến nay, công tác đo đạc thành lập bản đồ biển và hải đồ tỷ lệ 1/200.000 đã được thực hiện ở phần lớn diện tích biển (82%). Tuy nhiên, công tác điều tra cơ bản đối với các loại tài nguyên khác còn hạn chế, trong đó lĩnh vực địa chất, khoáng sản biển mới chỉ điều tra và thành lập bản đồ địa chất khoáng sản ở tỷ lệ nhỏ 1/500.000, đến độ sâu 100 m với diện tích khoảng 24,5%. Việc định hướng quy hoạch không gian biển trong thời gian tới gặp khó khăn do chưa có dữ liệu đầy đủ để xây dựng. Các dự án điều tra cơ bản chưa chú trọng tới công tác bảo vệ môi trường, nhất là các vùng biển nhạy cảm, gần các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, chưa gắn với mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu.
Để từng bước cung cấp đầy đủ hơn các số liệu phục vụ công tác quy hoạch không gian biển, bảo vệ môi trường biển và ứng phó biến đổi khí hậu, thời gian tới, các dự án điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển cần chú trọng một số nhiệm vụ sau: Nâng cao hiệu quả, chất lượng điều tra tài nguyên, môi trường biển, nhất là đối với các khu vực chưa có dữ liệu điều tra cơ bản các vùng biển nhạy cảm, dễ xảy ra sự cố môi trường biển; điều tra, đánh giá về hiện trạng rác thải biển (rác thải vi nhựa, rác thải phóng xạ…) đề xuất các giải pháp phòng tránh, xử lý hiệu quả rác thải biển; hoàn thành về cơ sở khoa học, thực tiễn hệ thống cơ sở dữ liệu và cơ chế quản lý, khai thác dữ liệu về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, sự cố môi trường, thiên tai, biến đổi khí hậu, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược biển, phát triển bền vững; phát triển hệ thống dự báo, cảnh báo, môi trường, phòng chống thiên tai, bảo đảm an toàn cho các hoạt động ven biển và trên biển, giữ vững chủ quyền biển, đảo của đất nước.