BVR&MT – Thời gian qua, các ngành chức năng trong tỉnh luôn coi trọng chất lượng dân số nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân và đảm bảo cho sự phát triển KT-XH bền vững.
Nghị quyết số 21-NQ/TW (ngày 25/10/2017) của BCH Trung ương Đảng về công tác dân số trong tình hình mới xác định mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Cụ thể hóa Nghị quyết số 21 vào tình hình thực tế của tỉnh, ngành dân số tỉnh đã đẩy mạnh công tác truyền thông về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số; tuyên truyền, vận động, giáo dục và tư vấn về SKSS-KHHGĐ phù hợp với từng nhóm đối tượng. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức, thúc đẩy mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng dân cư chuyển đổi hành vi để thực hiện đúng chính sách dân số. Công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên gắn với công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Đối tượng truyền thông chuyển đổi hành vi gồm phụ nữ, nam giới và các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, bà mẹ mang thai, bà mẹ mới sinh, vị thành niên và thanh niên, người cao tuổi; đối tượng huy động từ cộng đồng là những người có uy tín trong cộng đồng, dòng họ, gia đình…; đặc biệt lựa chọn ưu tiên truyền thông tại các vùng đặc thù, như vùng mức sinh cao, vùng có tỷ số giới tính khi sinh cao…
Cùng với đó, tổ chức hội nghị truyền thông cung cấp thông tin cho những người có uy tín trong cộng đồng, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, bí thư chi bộ, trưởng ban công tác mặt trận; truyền thông chăm sóc SKSS-KHHGĐ tại các xã có mức sinh cao… Từ đó, Quảng Ninh đạt được những kết quả tích cực trong công tác dân số nhờ sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị và lực lượng làm công tác dân số từ tỉnh đến cơ sở. Công tác này đã được triển khai đồng bộ trên các lĩnh vực: Quy mô, cơ cấu và nâng cao chất lượng dân số, phù hợp yêu cầu chuyển hướng công tác dân số trong tình hình mới, từng bước đưa Nghị quyết số 21 vào cuộc sống.
Từ năm 2011 đến nay, cơ cấu dân số của tỉnh có sự chuyển biến từ cơ cấu dân số phụ thuộc sang cơ cấu dân số vàng, dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Chất lượng dân số được cải thiện trên nhiều phương diện, tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Năm 2023 tỷ lệ phụ nữ mang thai được sàng lọc trước sinh đạt 97,8%; tỷ lệ phụ nữ mang thai tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh đạt 68,5%; tỷ lệ trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh tật bẩm sinh đạt 67,1%; 111.688 người áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại…
Tuy nhiên, quy mô dân số không ổn định, thường xuyên biến động, Quảng Ninh là tỉnh đạt mức sinh thay thế thuộc vùng có mức sinh không ổn định. Cơ cấu dân số đang ở giai đoạn dân số vàng nhưng đã bắt đầu bước sang giai đoạn già hóa với tốc độ nhanh, một số gia đình còn muốn sinh con trai dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh. Chất lượng dân số được đảm bảo nhưng vẫn còn hạn chế do sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền, vẫn còn tình trạng tảo hôn, tầm vóc thể lực còn chậm được cải thiện và chưa có số liệu điều tra cụ thể…
Để giải quyết được những hạn chế trên, ngành dân số tỉnh sẽ phải tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác truyền thông đến từng đối tượng cụ thể, nhất là những đối tượng khó tiếp cận như người di cư, người tàn tật, người cao tuổi; đồng thời triển khai hiệu quả các hoạt động nâng cao chất lượng dân số như tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước sinh và sơ sinh, mô hình phòng ngừa tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Song song với đó là nâng cao năng lực, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, cộng tác viên dân số. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng dân số, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Theo số liệu tổng điều tra ngày 1/4/2019, kết cấu dân số ở Quảng Ninh trong tình trạng già hóa dân số, chỉ số già hóa dân số là 47,9%. Tỷ số giới tính khi sinh không ổn định do có sự chênh lệch rất lớn giữa vùng nông thôn (113,7 bé trai/100 bé gái) và thành thị (101,5 bé trai/100 bé gái), là tỉnh có nhiều nguy cơ tiềm ẩn gia tăng dân số. |