Mục tiêu cải cách tiền lương là bảo đảm cho người lao động đủ sống bằng lương

BVR&MT – Theo ông Bùi Sỹ Lợi, mục tiêu cải cách tiền lương là bảo đảm cho người lao động đủ sống bằng lương; đặc biệt, phải xem xét quy định các loại phụ cấp đặc thù cho các ngành lĩnh vực đặc thù.

Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai vừa ký ban hành Kết luận số 62-KL/TW về việc thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Đáng chú ý, trong Kết luận này, Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu về xây dựng chính sách tiền lương phù hợp với đặc thù của ngành, lĩnh vực sự nghiệp công lập.

Thời điểm thích hợp để cải cách tiền lương

Tiếp nhận thông tin về Kết luận 62 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương, ở góc độ của một chuyên gia về tiền lương, an sinh xã hội, ông Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban xã hội của Quốc hội, cho rằng, cải cách tiền lương vào ngày 1/7/2024 là thời điểm phù hợp, chín muồi vì chúng ta đã lùi thời gian cải cách ít nhất 2 lần kể từ năm 2020; điều quan trọng là chúng ta đã thực hiện được một bước giảm nhẹ biên chế, sắp xếp tổ chức, chuẩn bị nguồn lực. Việc cải cách tiền lương trong điều kiện hiện nay là tin vui cho cán bộ công chức, viên chức, tạo động lực để cán bộ công chức viên chức hứng thú làm việc, thúc đẩy tăng năng suất lao động, gắn bó với cơ quan đơn vị.

Ông Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban xã hội của Quốc hội.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban xã hội của Quốc hội cũng cho rằng, theo tinh thần của Kết luận 62, Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu cho quá trình cải cách tiền lương phải xem xét đặc thù của các đơn vị sự nghiệp công nhằm mục tiêu đảm bảo tiền lương được phân phối theo đúng năng lực công tác, quá trình đào tạo, khả năng cống hiến và đảm bảo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động và xếp lương theo vị trí việc làm.

Chính vì lẽ đó, mục tiêu cải cách tiền lương là bảo đảm cho người lao động đủ sống bằng lương; đặc biệt, phải xem xét quy định các loại phụ cấp đặc thù cho các ngành lĩnh vực đặc thù; để giữ chân người lao động đang làm việc tại các lĩnh vực đó hoặc thu hút nhân tài có năng lực chuyên môn vào khu vực công nhằm khắc phục tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức dịch chuyển từ khu vực công sang khu vực tư (như 2 ngành y tế và giáo dục sau 2 năm đại dịch Covid-19); nguyên nhân là thu nhập thấp, đời sống khó khăn do chậm cải cách tiền lương.

Cải cách tiền lương nhưng đứng trước nhiều thách thức

Việc Bộ Chính trị yêu cầu Trung ương bám sát mục tiêu yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 về cải cách chính sách tiền lương hoàn toàn đúng với nguyên tắc của chi trả tiền lương, nguyên tắc phân phối theo lao động và quan trọng là tạo ra động lực để giữ chân công chức của khu vực công, thu hút người tài, tạo động lực cho bộ máy của khu vực công lập, bảo đảm tiền lương đủ sống để cán bộ không phải “chân ngoài dài hơn chân trong”, toàn tâm toàn ý thực hiện chức năng, nhiệm vụ được phân công theo vị trí việc làm của các ngành, lĩnh vực.

Một ý nghĩa quan trọng nữa của việc cải cách chính sách tiền lương, theo nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban xã hội của Quốc hội, đó là khi đã có mức lương đủ sống hay đảm bảo duy trì cuộc sống gia đình, con cái học hành, thì tư tưởng xà xẻo, hách dịch, tìm cách tham nhũng, tiêu cực cũng sẽ giảm đi. Dẫn chứng cụ thể như ở Singapore, với giải pháp “4 không” trong cuộc chiến chống tham nhũng: Không dám tham nhũng; Không thể tham nhũng; Không cần phải tham nhũng; và không được tham nhũng. Giải pháp “4 không với tham nhũng” là những kinh nghiệm chống tham nhũng hay của Singapore giúp nước này có bộ máy Nhà nước trong sạch và trở thành một trong những quốc gia ít tham nhũng nhất thế giới. Giải pháp này xem ra có tính khả thi đối với tất cả các nước đang tiến hành cuộc chiến chống tham nhũng như Việt Nam.

Nhấn mạnh vấn đề tiền lương phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là điều kiện kinh tế xã hội, năng suất lao động xã hội, mức độ tăng trưởng của nền kinh tế; tốc độ tăng tiền lương bình quân phải chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động, ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng, người ta chỉ cải cách được tiền lương khi năng suất lao động tăng, kinh tế phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang bị tác động bởi nhiều yếu tố nên vấn đề cải cách tiền lương còn chậm. Bộ máy của ta thoát ra từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp của những năm trước đây, chưa xây dựng được vị trí việc làm, phân công lao động chưa tốt, quản trị nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, bộ máy phình ra, biên chế tăng lên, lớn hơn so với yêu cầu nhiệm vụ dẫn tới năng suất thấp, năng suất lao động thấp thì không có đủ ngân sách để cải cách tiền lương.

Chúng ta cải cách tiền lương nhưng vẫn đứng trước nhiều thách thức: biên chế vẫn nhiều, tổ chức sắp xếp chưa tinh gọn, vẫn còn nhiều đơn vị sự nghiệp công lập Nhà nước phải nuôi, chứ chưa chuyển được sang tự chủ, tự chịu trách nhiệm; rồi đầu tư công để hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng… Vướng như thế nhưng chúng ta vẫn phải cải cách tiền lương cho thấy Nhà nước đã nỗ lực rất lớn. Trong nhiều trường hợp để ưu tiên cải cách tiền lương thậm chí còn phải cắt giảm cả đầu tư công, để đạt mục tiêu ưu tiên cho con người, coi đầu tư cho con người như đầu tư cho phát triển.

Phải phấn đấu để có một xã hội tiến bộ, làm ít hưởng thụ nhiều

Tuy nhiên trong điều kiện thực tế hiện nay, ông Bùi Sỹ Lợi vẫn lo ngại việc cải cách chưa thể kéo giảm được chênh lệch thu nhập tiền lương của khu vực công và khu vực tư như tinh thần của Nghị quyết 27. Vấn đề quan trọng hơn, khi thực hiện quá trình cải cách chính sách tiền lương, tổng lượng tiền lưu thông sẽ nhiều hơn, dẫn đến chỉ số giá sinh hoạt tăng lên. Vì thế, nếu Chính phủ không có các giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường thì việc cải cách tiền lương hay tăng thêm thu nhập cho người lao động sẽ không còn ý nghĩa.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban xã hội của Quốc hội cũng cho rằng, quá trình thực hiện cải cách chính sách tiền lương phải đồng bộ với quá trình cải cách thủ tục hành chính và phải tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Quan trọng nhất là áp dụng CNTT, công nghệ số, kinh tế số, để giảm tối đa lao động thủ công, mà vẫn tăng năng suất lao động.

Tăng năng suất lao động theo ông Bùi Sỹ Lợi không phải là kéo dài thời gian lao động (tăng cường độ lao động) mà phải sử dụng thời gian ít nhưng hiệu quả cao hơn.

Trong xã hội công nghiệp 4.0 nguồn nhân lực là vô cùng quý giá. Phải phấn đấu để có một xã hội tiến bộ, cách mạng công nghiệp 4.0 phải là làm ít hưởng thụ nhiều.

NGUỒNvov.vn
Tags:
CHIA SẺ