BVR&MT – Trong bối cảnh thị trường thế giới gặp nhiều biến động, thách thức, việc tận dụng các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để đẩy mạnh xuất khẩu là giải pháp duy trì sự phát triển bền vững.
Đây là nhận định của các chuyên gia tại hội thảo “Xuất khẩu vào thị trường FTA: Giải bài toán phát triển bền vững” do Báo Công Thương tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, ngày 18/11.
Dư địa thị trường rộng mở
Cùng với quá trình hội nhập, Việt Nam đã tham gia vào nhiều FTA song phương và đa phương; trong đó, có các FTA thế hệ mới với đối tác là những khu vực, thị trường có quy mô lớn, điển hình như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU) viết tắt là EVFTA, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… Việc thực thi các hiệp định trên đã mở ra cánh cửa thị trường, giúp hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có bước tăng trưởng ấn tượng trong những năm gần đây.
Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ, Bộ Công Thương cho biết, hơn 2 năm kể từ khi EVFTA đi vào hiệu lực, xuất khẩu của Việt Nam sang EU đã ghi nhận kết quả khả quan. Theo đó, năm 2021 và những tháng đầu năm 2022, trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam – EU tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng rất mạnh, kể cả so với thời kỳ trước đại dịch. Hiệp định EVFTA đã hỗ trợ tích cực cho hàng hóa Việt Nam và EU tiếp cận thị trường của nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa nguồn cung của cả hai bên.
Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, năm 2021 kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – EU đạt 57,01 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2020. Riêng 10 tháng năm 2022, kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và EU đạt 52,5 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu từ Việt Nam đạt 39,7 tỷ USD, tăng 23,5%.
Không chỉ tập trung vào các thị trường lớn, cửa ngõ EU như Đức, Hà Lan, Pháp… hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đang dần được đẩy mạnh sang các thị trường nhỏ hơn, thị trường ngách như tại Bắc Âu, Đông Âu hay Nam Âu. Đáng chú ý, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu vào EU cũng có xu hướng mở rộng và đa dạng hóa và đạt tốc độ tăng ấn tượng như: máy móc – thiết bị đạt 43%, giày dép đạt 54%, dệt may đạt 44%. Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông lâm thủy sản khác cũng tăng ở mức rất cao: cà phê đạt 43,4%, thủy sản 31,6%, rau quả 23,5%, gạo 12,2%…
Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều dư địa cho hàng hoá Việt Nam tại EU, bà Hiều nhấn mạnh. EU hiện là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới với quy mô khoảng 2,1 nghìn tỷ EUR trong năm 2021 và thị phần hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam mới chỉ chiếm gần 2%. Thêm vào đó, cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam – EU cũng phần nhiều mang tính bổ trợ, không cạnh tranh trực tiếp.
Về lợi ích thực thi CPTPP, bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cho biết, sau gần 4 năm CPTPP có hiệu lực, dù thị trường thế giới xảy ra nhiều biến động, xuất khẩu vào khối CPTPP vẫn thể hiện sự phát triển ổn định và đầy tiềm năng. Ước tính đến cuối tháng 11/2022, xuất khẩu thủy sản vào các nước CPTPP ước đạt khoảng 2,6 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2021 và tăng 13,6% so với năm 2018.
Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu vào các nước trong khối CPTPP đều tăng trưởng hai con số so với năm 2021 như Nhật Bản tăng 33%, Canada 67%, Úc 53%, Malaysia 34%, Mexico 59%; đặc biệt đã mở được thị trường Peru với giá trị gần 12 triệu đô.
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt lợi thế để phát triển các dòng sản phẩm chủ lực như tôm, cá tra; trong đó, tôm xuất khẩu tăng 51% và nhanh chóng phủ sóng các thị trường như Australia với tốc độ tăng trưởng gần 60%; Canada tăng 56%… Đối với sản phẩm cá tra cũng có sự tăng trưởng rất ấn tượng tại Mexico với mức tăng trưởng 70%, đưa quốc gia này trở thành nước nhập khẩu cá tra lớn thứ 3 của Việt Nam sau Mỹ và Trung Quốc.
Hướng tới sự bền vững
Cơ hội mở rộng xuất khẩu đang hiện hữu, nhưng để tận dụng tối đa các ưu đãi từ FTA vẫn còn là thách thức với nhiều doanh nghiệp Việt; đặc biệt, trong bối cảnh tình hình quốc tế gặp nhiều rủi ro suy thoái kinh tế, gián đoạn chuỗi cung ứng.
Bà Nguyễn Thảo Hiền cho biết, thị trường thương mại hàng hóa đã và đang có những diễn biến phức tạp về nguồn cung, giá cả. Mặc dù thị trường EU đã cắt giảm nhiều loại thuế quan và quy mô thị trường lớn, nhưng đây cũng là thị trường có xu hướng áp dụng hàng rào phi thuế quan, siết chặt các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật… Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn gặp khó trong việc tiếp cận thị trường EU do chưa hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu cao mà EU đặt ra từ truy xuất nguồn gốc đến các vấn đề môi trường, xã hội, phát triển bền vững…
Theo bà Nguyễn Thảo Hiền, doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực đổi mới chính mình, chuẩn bị kế hoạch bài bản để tận dụng tối đa cơ hội thị trường. Trong sản xuất, ngoài việc chủ động kiểm soát, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo tuân thủ chặt chẽ tiêu chuẩn và quy định nhập khẩu của EU, doanh nghiệp cần đặc biệt chú trọng truy xuất nguồn gốc, đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi từ EVFTA.
Ngoài ra, cần nghiên cứu đẩy mạnh ứng dụng khoa học – kỹ thuật, các quy chuẩn thực hành tốt trong sản xuất, tăng cường chế biến sâu để gia tăng giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh. Nỗ lực xanh hóa sản xuất, cũng như thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường cần được chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa.
Bà Lý Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh chia sẻ, lợi ích về mở rộng thị trường thông qua các FTA. Tuy nhiên để được ưu đãi, các doanh nghiệp cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn phức tạp và khắt khe. Doanh nghiệp cần tăng tính chủ động như tìm hiểu cơ hội, cam kết trong các FTA để đáp ứng tốt nhất quy định về quy tắc xuất xứ. Đặc biệt, để tăng tính cạnh tranh cho thực phẩm chế biến, doanh nghiệp cần cải tiến quy trình sản xuất, đổi mới, áp dụng thay đổi công nghệ chế biến, bảo quản. Tập trung liên kết doanh nghiệp với doanh nghiệp để đẩy mạnh chuyên môn hóa, hợp tác hóa, tạo thành chuỗi dây chuyền sản xuất và xuất khẩu, tăng cường lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Ông Jean-Jacques Bouflet, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho biết, kể từ năm thứ 3 thực thi EVFTA, biên độ ưu đãi, mức ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng sẽ cao hơn 2 năm đầu, đủ để tạo động lực xuất khẩu mạnh hơn. Tuy nhiên, thách thức cũng không giảm bớt bởi các điều kiện về tiêu chuẩn sẽ ngày càng được nâng cao. Các nhóm hàng hóa có tần suất kiểm tra kỹ thuật nhiều nhất khi nhập khẩu vào EU là rau quả, thực phẩm chế biến, dệt may, đồ da, hóa chất, giày dép, sản phẩm nhựa… Đây cũng là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Quy định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch của EU thường xuyên được điều chỉnh và thay đổi. Do vậy, các nhà sản xuất và công ty xuất khẩu sản phẩm sang EU cần lưu ý phải kiểm tra, cập nhật văn bản pháp luật liên quan của EU, thường xuyên rà soát các thông báo về thay đổi quy định của EU.
“Doanh nghiệp phải đầu tư cả về chiều sâu và chiều rộng, đảm bảo kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm và toàn bộ quy trình sản xuất, chứ không chỉ ở chặng cuối mới có thể vượt qua thách thức về các biện pháp kỹ thuật. Ngoài các tiêu chuẩn, doanh nghiệp cần cập nhật xu hướng tiêu dùng xanh và bền vững bởi người tiêu dùng EU nói riêng và thế giới nói chung đều ưa chuộng sử dụng hàng hóa đảm bảo tiêu chí về bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội…Các mặt hàng đa năng và thuận tiện cho vận chuyển phù hợp với thương mại điện tử cũng sẽ dễ tiếp cận khách hàng hơn.”, ông Jean-Jacques Bouflet khuyến nghị.