Khó hiện thực hóa phương châm ‘rác là tài nguyên’

BVR&MT – Chất thải rắn đang tạo ra nhiều thách thức trong quản lý khi Việt Nam chủ yếu xử lý bằng phương pháp chôn lấp và việc hiện thực hóa phương châm “rác là tài nguyên” vẫn tiếp tục khó khăn.

Lượng rác thải rắn thu gom đã tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ năm 2015-2019. (Ảnh: Xuân Triệu/TTXVN)

Tốc độ tăng trưởng kinh tế, đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng đang là các nguyên nhân chính khiến cho tỷ lệ chất thải gia tăng.

Theo các chuyên gia, chất thải rắn đang tạo ra nhiều thách thức trong quản lý khi Việt Nam chủ yếu xử lý bằng phương pháp chôn lấp và việc hiện thực hóa phương châm “rác là tài nguyên” vẫn tiếp tục khó khăn.

Gần 71% rác chôn lấp

Theo thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng rác thải rắn thu gom đã tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ năm 2015-2019, từ mức 32.400 tấn/ngày lên 65.000 tấn/ngày; trong đó tới hơn 50% đến từ các đô thị.

Nếu chỉ tính 5 thành phố trực thuộc trung ương, gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ, tổng lượng rác thải đô thị đã chiếm tới 40%.

Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thải ra 16.000 tấn rác mỗi ngày, tương đương 33,6% cả nước.

Tuy nhiên, phương thức quản lý và xử lý rác thải áp dụng hiện nay còn khá hạn chế, các công nghệ xử lý rác thải rắn, nhất là công nghệ phát điện từ rác, còn gặp nhiều thách thức, khiến phương pháp xử lý chủ yếu hiện nay vẫn là chôn lấp.

Thống kê từ cơ quan chức năng cho thấy, Việt Nam có 1.322 cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt; trong đó, có 381 lò đốt, 37 dây chuyền chế biến phân compost, 904 bãi chôn lấp.

Với tỷ lệ rác thải, có tới 71% lượng chất thải rắn thu gom được xử lý bằng chôn lấp. Chỉ có 16% lượng thu gom được xử lý bằng ủ compost và 13% lượng thu gom được xử lý bằng phương pháp đốt.

Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, nhận định nhiều bãi chôn lấp rơi vào tình trạng vượt công suất nên khó tuân thủ được các điều kiện bảo vệ môi trường, gây ra nhiều hệ lụy tương đối nghiêm trọng cho môi trường và sức khỏe như ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm đất, ô nhiễm không khí…

Giải pháp cho chất thải rắn

Theo kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2013, đến hết 2019, Việt Nam phải xây dựng được 229 cơ sở xử lý rác, nhưng tới cuối năm 2021, mới chỉ 85% số cơ sở được hoàn thành, tức là còn tới 65 cơ sở vẫn đang trong quá trình xây dựng; trong đó gồm 31 bãi chôn lấp.

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2050 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định phải đạt 95%.

Tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định lần lượt đạt trên 50% đối với đô thị loại 2 trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại.

Để hiện thực hóa, các chuyên gia cho rằng, trong giai đoạn tới sẽ cần nguồn vốn rất lớn, kèm theo là công nghệ, kỹ thuật; đặc biệt nâng cao vai trò của người dân trong quản lý, phân loại rác thải.

Bà Trần Hoàng Anh, chuyên gia Phân tích Năng lượng thuộc Sáng kiến về Chuyển dịch Năng lượng Việt Nam (VIETSE), cho rằng khó khăn hiện nay là quỹ đất dành cho các bãi chôn lấp rác thải ngày càng hạn chế, phương pháp chôn lấp từ lâu đời, tỷ lệ được xử lý kết hợp thu hồi năng lượng thấp.

Hầu hết các loại rác chưa được phân loại tại nguồn, dẫn đến chất lượng rác thải đầu vào cho quá trình xử lý còn thấp, giảm hiệu quả xử lý rác thải.

Việt Nam đã có khung pháp lý khá rõ ràng, như Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường; Luật Bảo vệ môi trường; Quy hoạch về bảo vệ môi trường; Quyết định về cơ chế hỗ trợ phát triển dự án điện sinh khối tại Việt Nam…

Gần đây nhất, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 45/2022/NĐ-CP ngày 7/7/2022 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và có hiệu lực từ ngày 25/8 tới; trong đó quy định mức phạt từ 500.000-1 triệu đồng đối với hộ gia đình và cá nhân nếu không phân loại rác thải và sử dụng bao bì đúng quy định.

“Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc phân loại rác tại nguồn và thể hiện sự quan tâm lớn của Chính phủ,” bà Trần Hoàng Anh nói.

Theo bà Trần Hải Anh, chuyên gia tư vấn cao cấp về môi trường, hiện nay có nhiều phương pháp để xử lý chất thải rắn đang được các nước áp dụng gồm công nghệ xử lý chất thải hỗn hợp; đồng đốt trong lò xi măng; phương pháp thủy phân nhiệt xử lý bùn cống; sử dụng vi khuẩn xử lý rác hữu cơ theo công nghệ của Hyperthermics; khí sinh học cho các hộ gia đình chăn nuôi; sử dụng giun quế, ruồi lính đen xử lý chất thải hữu cơ.

Tuy nhiên, bà Trần Hải Anh cũng cho rằng công nghệ không phải yếu tố quyết định, đó chỉ là một phần của chu trình xử lý rác thải. Điều quan trọng là tính chất của rác thải và nhu cầu của người dân, nhà đầu tư.

Do đó việc phân loại rác tại nguồn là rất cần thiết, từ đó mới lựa chọn công nghệ xử lý khả thi về mặt kinh tế.

Để có thể tăng tỷ lệ xử lý rác thải, theo bà Hải Anh, Việt Nam có thể tích hợp nhiều công nghệ xử lý chất thải rắn; quy hoạch nhà máy xử lý rác theo tiềm năng nhằm có được đủ trữ lượng đầu vào cung cấp cho các nhà máy xử lý rác.

Cùng đó, quy định cụ thể chế tài xử phạt đối với việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt theo địa bàn theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường; có quy định cụ thể về việc thu gom chất thải nguy hại trong chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân.

Ông Hans Breukelman, Giám đốc Công ty BreAd, thành viên của Hiệp hội Chất thải rắn Quốc tế chia sẻ: “Không có công nghệ nào là ‘liều thuốc tiên” cho xử lý rác thải, mà sẽ cần tới giải pháp riêng cho từng vùng. Đây là vấn đề cần sự hợp tác của nhiều bên: chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng và từng người dân. Kèm theo đó, Việt Nam cần có dữ liệu về lượng rác thải sinh hoạt, rác thải rắn tại từng khu vực làm cơ sở tham chiếu cho các nhà đầu tư.”

Về vấn đề này, ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho rằng việc huy động nguồn lực xã hội vào các dự án xử lý rác, chất thải đang gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc. Bởi nhiều cơ chế chưa thuận lợi, hấp dẫn; chi phí đầu tư vận hành cao trong khi giá dịch vụ còn thấp…

Do vậy, cần quy hoạch hợp lý về phát triển hạ tầng cơ sở, pháp lý rõ ràng cho hợp tác công-tư, có chính sách ưu đãi, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư áp dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường. Đồng thời có thể thực hiện đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư, ưu tiên việc đấu thầu quốc tế…

Hiện nay, Sáng kiến về Chuyển dịch Năng lượng Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu các giải pháp nhằm tối ưu hóa tiềm năng chất thải rắn của quốc gia.

Một trong những công cụ quan trọng nhất được VIETSE phát triển là bản đồ hiện trạng chất thải rắn hàng ngày ở quy mô đô thị và công nghiệp. Kho dữ liệu này được xây dựng trên phạm vi toàn quốc và dựa trên số liệu điều tra về lượng chất thải rắn phát sinh hàng ngày trên đầu người tại các tỉnh thành và số liệu điều tra dân cư cấp xã.

Các kết quả phân tích được trực quan hóa trên hệ thống tin địa lý GIS. Hệ thống thông tin GIS về tiềm năng rác thải Việt Nam có thể truy cập theo địa chỉ: https://vietse.vn/waste-map-vietnam.

Hệ thống được đánh giá sẽ góp phần nhận diện tiềm năng tương lai của lĩnh vực này trong quá trình chuyển dịch năng lượng với các mục tiêu giảm ô nhiễm môi trường và bảo vệ khí hậu.

Các dữ liệu trên hệ thống sẽ hỗ trợ cho quá trình ra quyết định đầu tư các dự án xử lý chất thải rắn, cũng như xây dựng chính sách quản lý và xử lý chất thải một cách hiệu quả, hiện thực hóa phương châm “rác là tài nguyên.”./.