BVR&MT – Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập tại Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 5/8/2002. Trong 20 năm qua, ngành Tài nguyên và Môi trường đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, chủ động nắm bắt thuận lợi, thời cơ, qua đó củng cố vững chắc nền tảng, khẳng định vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng kiến tạo tương lai bền vững của đất nước.
Tạo dựng nền tảng
Là một trong những Bộ đa ngành đầu tiên với 6 lĩnh vực quản lý, đến nay, Bộ đã được giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý trên 9 lĩnh vực gồm: đất đai, tài nguyên nước, địa chất và tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ, quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, biến đổi khí hậu, viễn thám. Trong đó các lĩnh vực quản lý nguồn lực đầu vào của nền kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến quốc phòng, an ninh, sự phát triển bền vững của đất nước, có liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp.
Những năm qua, Bộ đã không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng thể chế là một trong những trọng tâm. Luật đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường xây dựng khá đồng bộ, kịp thời tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế – xã hội và tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường. Hệ thống các quy hoạch, chiến lược nhất là hệ thống quy hoạch sử dụng đất được xây dựng khá đồng bộ từ quốc gia đến cấp xã. Chiến lược Quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 đã được ban hành theo Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg ngày 14/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ.
Với phương châm hướng về địa phương cơ sở, người dân, doanh nghiệp, công tác cải cách hành chính nhất là cải cách thủ tục hành chính, tăng cường tính công khai, minh bạch, đơn giản, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp được triển khai đông bộ. Bộ là một trong số ít các Bộ đi tiên phong trong việc triển khai áp dụng cơ chế “một cửa”, thí điểm mô hình “một cửa liên thông”, tổ chức giao lưu trực tuyến với nhân dân và doanh nghiệp, thiết lập kênh thông tin trả lời tổ chức, công dân về tài nguyên và môi trường.
Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng từ nhận thức và hành động; gắn mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế- xã hội; được lồng ghép vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, các chương trình dự án. Tập trung khắc phục suy thoái môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái; chú trọng phát triển kinh tế xanh, thuận thiện với môi trường. Xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường được đẩy mạnh.
Các chiến lược, quy hoạch trong tất cả các lĩnh vực của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã được tập trung xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền. Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 được phê duyệt với mục tiêu đại hóa công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu được nhận diện là thách thức nghiêm trọng nhất đối với toàn nhân loại, ảnh hưởng sâu sắc và làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội toàn cầu được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước, ngành đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được chú trọng, đạt nhiều kết quả. Năng lực cảnh báo, dự báo thiên tai được tăng cường, chất lượng có bước được nâng lên. Công nghệ viễn thám được sử dụng trong giám sát tài nguyên, giám sát lãnh thổ nhất là các vùng biển, đảo. Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng, chống thiên tai được triển khai, tranh thủ được sự hợp tác, hỗ trợ của nhiều đối tác.
Hợp tác, hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đạt được nhiều thành tựu: 5 điều ước quốc tế song phương; 30 điều ước quốc tế đa phương, 18 thỏa thuận quốc tế do Bộ là cơ quan chủ trì thực hiện đã được ký kết, tổ chức triển khai mở ra một chương mới trong hoạt động đối ngoại về tài nguyên và môi trường “chủ động, tăng cường tiếng nói của Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu”.
Các hoạt động điều tra cơ bản về đất đai, tài nguyên nước, địa chất về khoáng sản, môi trường, tài nguyên trên biển, hải đảo được triển khai có trọng tâm, trọng điểm. Lần đầu tiên Việt Nam có một cơ sở dữ liệu thông tin địa lý tỷ lệ 1:10000 phủ trùm cả nước, đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước về lãnh thổ, quản lý các hoạt động kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai, giám sát khai thác tài nguyên thiên nhiên, kiểm soát tình trạng môi trường.
Đặc biệt Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được Quốc hội thông qua thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, đột phá để đưa công tác bảo vệ môi trường thực sự trở thành trụ cột của phát triển bền vững trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phù hợp xu thế, luật chơi quốc tế, hướng tới mục tiêu cao nhất là đảm bảo môi trường sống trong lành cho nhân dân.
Ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020, môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sự tồn tại của con người, bảo đảm cho sự phát triển bền vững kinh tế, xã hội. Vì lẽ đó, người dân, doanh nghiệp đóng vai trò cốt yếu trong công tác bảo vệ môi trường. Yêu cầu về bảo vệ môi trường hay tiêu chí môi trường đã và đang được thể hiện trong các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại thế hệ mới, do đó, thực hiện tốt Luật Bảo vệ môi trường là động lực và lợi thế để hội nhập quốc tế thành công và hiệu quả.
“Từ các chính sách, quy định có liên quan, thông điệp ngắn gọn của Luật Bảo vệ môi trường 2020 đưa ra đối với người dân và doanh nghiệp là, người dân, doanh nghiệp là một phần không thể tách rời của môi trường. Chủ động, có trách nhiệm với môi trường chính là bảo đảm chất lượng sống của người dân và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp” Ông Nguyễn Hưng Thịnh nhấn mạnh.
Hội nhập phát triển
Mặc dù có nhiều thuận lợi từ những nền tảng tạo dựng của các thế hệ, nhưng ngành Tài nguyên và Môi trường cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức to lớn từ mô hình tăng trưởng thiếu bền vững dựa vào tài nguyên, thâm dụng vào môi trường.
Thể chế, chính sách, pháp luật tiếp tục là định hướng ưu tiên, tư duy làm chính sách cũng được đổi mới chuyển từ thắt chặt quản lý sáng tạo kiến tạo môi trường thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy phát triển. Đặc biệt, Bộ chú trọng tổng kết, đánh giá sát đúng thực tiễn, phân tích dự báo các xu thế phát triển trong điều kiện hội nhập, đánh giá các tác động để chính sách không chỉ giải đúng và trúng các vấn đề đặt ra từ quản lý mà còn tạo dư địa, động lực mới để giải phóng các nguồn lực tài nguyên cho phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy chuyển đổi mô hình phát triển bền vững, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải.
Nhiều chủ trương quan trọng đã được ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành như Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 25/9/2021 Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khí tượng thủy văn đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổng kết, sơ kết đề xuất Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”.
Chuyển đổi số được đẩy mạnh trên nền tảng tài nguyên số, dữ liệu về thông tin địa lý, dữ liệu đất đai, dữ liệu viễn thám,.. hướng tới phát triển kinh tế số ngành tài nguyên và môi trường. Cải cách thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy giảm khâu trung gian, quy trình hóa các khâu trong giải quyết thủ tục và hiện đại hóa nền hành chính được triển khai đồng bộ.
Về đích hoàn thành mục tiêu của Chính phủ về phát triển chính phủ điện tử với 100% thủ tục được thực hiện trực tuyến, 80% ở cấp độ 4; việc xử lý, giải quyết hồ sơ, ký số được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng (trừ văn bản mật); các hoạt động chỉ đạo điều hành, các Hội nghị, diễn đàn của Liên hợp quốc, cuộc họp, đàm phán được thực hiện trực tuyến, đảm bảo thông suốt.
Năm 2021, tỷ lệ người dân hài lòng về dịch vụ công về đất đai, môi trường tăng 4,14%; tỷ lệ người dân quan ngại về môi trường giảm từ 8,85% năm 2019 xuống còn 4,03%; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam ở vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ tăng 37 bậc so với năm 2016 (vị trí 88). Bộ Tài nguyên và Môi trường xếp thứ 6 trong số các bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính. Nhiều chương trình, công trình nghiên cứu khoa học đóng góp cho thực tiễn; hỗ trợ đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học.
Ngành tài nguyên và môi trường chủ động hội nhập, đóng góp nhiều sáng kiến quy mô toàn cầu, khu vực liên quan đến giải quyết ô nhiễm rác thải nhựa đại dương, ứng phó biến đổi khí hậu, phòng ngừa ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, quản lý và sử dụng bền vững.
Đặc biệt, việc tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu năm 2016 và đưa ra tuyên bố cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu (COP 26) năm 2021 mang lại cho Việt Nam cơ hội tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính xanh để thực hiện tái cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển theo hướng kinh tế các-bon thấp, kinh tế tuần hoàn, cũng như chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tại phiên họp thứ ba của Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 mới đây, báo cáo đánh giá tình hình triển khai thực hiện các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, các bộ, ngành và địa phương đã có một số kết quả quan trọng, từ rà soát, hoàn thiện các quy hoạch, kế hoạch đến xây dựng các chương trình hành động. Các bộ, cơ quan liên quan đã rất tích cực thúc đẩy các hoạt động hợp tác. Nhiều thỏa thuận hợp tác đã được các bộ, ngành ký kết với các đối tác phát triển, các định chế tài chính, bước đầu tìm kiếm và huy động nguồn lực hỗ trợ, đầu tư và triển khai các giải pháp giảm nhẹ phát thải khi nhà kính, hướng tới phát triển bền vững, phát thải carbon thấp và tăng trưởng xanh tại Việt Nam. Sau Hội nghị COP26, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, tập đoàn năng lượng lớn trên thế giới mong muốn phát triển các dự án điện gió ngoài khơi. Một số tập đoàn lớn đang tiến hành nghiên cứu, đề xuất các dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.
Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương hoàn thành phân giới, cắm mốc trên thực địa (khoảng 84%) trên toàn tuyến biên giới trên đất liền Việt Nam – Campuchia; thực hiện hỗ trợ quốc tế đối với Lào, Campuchia trong công tác dự báo khí tượng, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng pháp luật, dữ liệu nền thông tin địa hình cơ bản phục vụ quy hoạch, phát triển kinh tế – xã hội và giám sát tài nguyên và môi trường.
Công tác bảo vệ môi trường đã tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của toàn xã hội, là vấn đề sống còn và trung tâm của phát triển. Tư duy bảo vệ môi trường đã chuyển bị động ứng phó, khắc phục sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát, phục hồi môi trường, các hệ sinh thảo. Bài toán về rác thải đã có lời giải với các dự án, mô hình công nghệ tái chế, tái sử dụng, biến rác thải thành tái nguyên. Các chỉ số về môi trường có sự chuyển biến: tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom xử lý tăng trung bình 6%/năm với nhiều mô hình hiệu quả; tỷ lệ thu gom xử lý chất thải rắn công nghiệp đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 90%; số xã đạt tiêu chí chuẩn nông thôn mới về môi trường tăng 8,3%. Nhiều dự án thu gom xử lý nước thải, bổ cập nước để phục hồi xanh hóa các dòng sông.
Các nguồn tài nguyên đã được quản lý tổng hợp, sử dụng hiệu quả, đa mục đích. Thực hiện chuyển dịch hơn 230 nghìn héc-ta đất sang các mục đích phi nông nghiệp đáp ứng yêu cầu mặt bằng cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ, đô thị và nhà ở; đưa 926 nghìn ha đất chưa sử dụng vào sử dụng chủ yếu cho phát triển rừng. Đóng góp từ tài nguyên cho ngân sách nhà nước nước trong giai đoạn 2016-2021 từ đất đai là hơn 1,05 triệu tỷ, từ khoáng sản là hơn 21 nghìn tỷ đồng từ tài nguyên nước là 11,76 nghìn tỷ đồng. Phát hiện nhiều di sản địa chất với nhiều nét đặc trưng được ghi danh trên bản đồ địa chất toàn cầu. Tiềm năng lợi thế về biển được phát huy, các địa phương có biển đã trở thành khu vực phát triển năng động, thu hút nguồn lực đầu tư. Các vi phạm được thanh tra, kiểm tra xử lý, kiến nghị thu hồi gần 21,5 nghìn ha đất, truy thu hơn 444 tỷ đồng; khiếu nại, tố cáo giảm trung bình 9,0%/năm; khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai giảm 38% so với giai đoạn trước.
Phát huy những kết quả, thành tựu đã đạt được và trước những khó khăn thách thức đang phải đối mặt, ngành tài nguyên và môi trường đang và sẽ không ngừng nỗ lực, phấn đấu hoàn thiện nhằm nâng cao năng lực hiệu quả quản lý, thực hiện sứ mệnh kiến tạo, thúc đẩy phát triển bền vững cho đất nước; đến năm 2030, cơ bản đạt mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.a