Vai trò cấp thiết của chuyển đổi số với ngành lâm nghiệp

BVR&MT – Hiện nay, với những quy định mới của EU, ngành lâm nghiệp đã và đang gặp phải những khó khăn trong việc phân định diện tích rừng với diện tích trồng cà phê. Để thích ứng với quy định này đòi hỏi ngành lâm nghiệp phải quan tâm tới cơ sở dữ liệu để xác định chỉ số địa lý; các dữ liệu nền tảng để so sánh, đối chiếu và biết chính xác được diện tích, các diễn biến của quá trình chuyển đổi, sản xuất, thương mại để minh bạch được quá trình sản xuất.

Cán bộ Kiểm lâm tiến hành cập nhật dữ liệu cây xanh trên phần mềm.

Nhằm tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý của ngành, Cục Lâm nghiệp có Quyết định 34/QĐ-LN-CĐS năm 2023 về Kế hoạch chuyển đổi số năm 2023.

Theo đó, mục tiêu của đơn vị là hoàn thành danh mục cơ sở dữ liệu chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý và ban hành được kế hoạch, lộ trình cụ thể để xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu trong danh mục. Đồng thời, nâng cấp, cải tiến Hệ thống nền Thông tin quản lý ngành Lâm nghiệp (FORMIS), đáp ứng các yêu cầu về cấu trúc, chuẩn hóa dữ liệu, đảm bảo cho việc cài đặt, tích hợp, kết nối các phần mềm/ứng dụng chuyên ngành vào Hệ thống; thiết lập Hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, thực hiện quản lý dữ liệu trên hệ thống FORMIS…

Với ý nghĩa quan trọng đó Cục Lâm nghiệp, Bộ NNPTNT tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Chuyển đổi số trong lĩnh vực lâm nghiệp, cơ hội và thách thức” nhằm giúp các ngành chức năng, doanh nghiệp, người dân có cái nhìn toàn cảnh về quá trình chuyển đổi số ngành lâm nghiệp, những cơ hội và thách thức có thể gặp phải trong quá trình thực hiện.

Tại buổi tọa đàm, ông Phạm Hồng Lượng, Phó chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, chia sẻ: Năm 2023, chúng tôi đã tích hợp cơ sở dữ liệu ven biển trong cơ sở dữ liệu này. Với các kế hoạch như vậy, ngành xác định các lộ trình triển khai để đáp ứng mục tiêu chung của quốc gia về chuyển đổi số.

Với diện tích 14 triệu ha, đối tượng rừng phong phú như người dân, chủ rừng, UBND xã, ban quản lý bảo vệ rừng… Do địa bàn rộng, đa dạng đối tượng nên ứng dụng công nghệ vào ngành có khó khăn, trong đó kể đến như việc tiếp cận, cơ sở hạ tầng… Bình thường cơ sở hạ tầng tiếp cận với các vườn quốc gia, rừng đã xa rồi nên khi ứng dụng công nghệ càng khó khăn nên đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn.

Ông Nguyễn Đức Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đánh giá: ngành lâm nghiệp đã và đang đẩy mạnh chuyển đổi số. Theo đó, Cục Kiểm lâm đã ứng dụng dự báo nguy cơ cháy rừng, ứng dụng trong phân cấp nguy cơ cháy rừng cảnh báo tự động sẽ giảm thiểu thiệt hại khi cháy rừng xảy ra. Ngành lâm nghiệp ứng dụng hệ thống thông tin địa lý và viễn thám trong quản lý rừng tài nguyên bền vững. Bên cạnh đó, nhiều hoạt động như xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên rừng, thực vật, lâm sản ngoài gỗ…

GS.TS Phạm Văn Điển – Hiệu trưởng Trường Đại học Lâm nghiệp cho biết, trường đã xây dựng được hệ thống phần mềm cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ về lĩnh vực lâm nghiệp. Đơn cử, phần mềm Forestry 4.0 có thể xác định được diễn biến của rừng đến phạm vị từng lô một.

Theo ông Điển, chúng ta có 7,5 triệu lô rừng và các hình ảnh có độ phân giải cao đang được cập nhật. Khi đó sẽ soi được từng gốc cây, theo dõi được diễn biến của rừng phát triển tốt hơn hay xấu đi. Đây chính là cơ sở vô cùng cần thiết để phục vụ cho công tác truy xuất, nghiên cứu trong ngành lâm nghiệp.

Phần mềm Forestry 4.0 cũng xác định từng loại cây. Hiện có 200 loài cây trong cơ sở dữ liệu và sắp tới có thêm 600 loài cây được cập nhập, được đánh số định vị. Người dân sử dụng phần mềm sẽ có luôn tư vấn thông liên quan đến cây trồng. Đây chính là tác động, tương tác mới nhờ chuyển đổi số mang lại, ông Điển cho hay.

Hậu Thạch