BVR&MT – Ngày 15/8, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 36, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ dành trọn 1 ngày để tiến hành chất vấn các Bộ trưởng, trưởng ngành.
Tại phiên họp, các đại biểu Đinh Duy Vượt (Gia Lai); Nguyễn Thanh Hiền (Nghệ An); Trần Văn Lâm (Bắc Giang); Giàng Thị Bình (Lào Cai); Mai Thị Phương Hoa (Nam Định); Trần Thị Dung (Điện Biên); Triệu Thị Thu Phương (Bắc Kạn); Đặng Thuần Phong (Bến Tre); Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng);… chất vấn các vấn đề: Quản lý thông tin trên mạng xã hội; xử lý sim rác; giải pháp hỗ trợ ngư dân; tiến độ triển khai xây dựng đường cao tốc Bắc – Nam và một số công trình giao thông trọng điểm; vấn đề quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài; bố trí vốn đầu tư phát triển KT-XH cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn; giải pháp xử lý tình trạng chậm trễ, “nợ đọng” trong văn bản hướng dẫn thi hành luật; xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn trong lĩnh vực xây dựng; công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, triệt phá các băng nhóm cho vay nặng lãi, tín dụng đen; xử lý vấn đề rác thải nhựa, bảo đảm môi trường…
Lần đầu tiên UBTVQH tiến hành giám sát lại
Phát biểu kết luận Phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết, với tinh thần trách nhiệm cao, đã có 35 đại biểu Quốc hội chất vấn, 3 lượt đại biểu tranh luận và hiện còn 12 đại biểu chưa được chất vấn, 2 đại biểu chưa được tranh luận.
Tại phiên chất vấn, đã có 14 Bộ trưởng và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã cùng tham gia trả lời chất vấn về các vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý, điều hành của mình. Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đã thay mặt Chính phủ phát biểu làm rõ thêm một số nội dung và trực tiếp trả lời một số câu hỏi của đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, đây là lần đầu tiên UBTVQH tiến hành giám sát lại đối với các vấn đề đã được giám sát, chất vấn tại các phiên họp của UBTVQH.
Tiếp nối từ thành công của phiên chất vấn lại ở Kỳ họp thứ 6, việc chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp này cho thấy tính liên tục, toàn diện trong hoạt động giám sát của Quốc hội; thể hiện tinh thần, trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội trong việc theo dõi, giám sát đến cùng những nội dung đã được giám sát.
Phiên chất vấn cũng là cơ hội để các thành viên chính phủ báo cáo, giải trình, làm rõ những vấn đề, nội dung còn tồn tại, hạn chế và đề xuất những chủ trương, giải pháp trong thời gian tới. Điều này là hết sức quan trọng nhất là trong bối cảnh cả nước đang nỗ lực hoàn thành vượt mức các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội được đề ra cho cả nhiệm kỳ.
Sôi nổi, dân chủ, thẳng thắn, trách nhiệm
Nội dung chất vấn bao quát gần hết các vấn đề của đời sống kinh tế-xã hội, liên quan đến trách nhiệm quản lý, điều hành của hầu hết các bộ, ngành. Có những nội dung đã được chất vấn nhiều lần tại các Kỳ họp Quốc hội, phiên họp UBTVQH nhưng tiếp tục vẫn là vấn đề nóng, được các ĐBQH quan tâm để chất vấn lại tại phiên họp này.
Nhìn chung, phiên chất vấn diễn ra sôi nổi, thể hiện tinh thần dân chủ, thẳng thắn, trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội, các thành viên Chính phủ, trưởng ngành trước mỗi vấn đề bức xúc của người dân.
Các đại biểu đã nghiên cứu kỹ các báo cáo, hỏi thẳng vào vấn đề còn vướng mắc hoặc chưa được đề cập, làm rõ trong các báo cáo; tích cực tranh luận để đi đến cùng vấn đề.
Các Bộ trưởng, trưởng ngành đã dành thời gian quan tâm và chuẩn bị khá kỹ cho việc trả lời chất vấn, cơ bản nắm chắc và toàn diện vấn đề của ngành, lĩnh vực mình phụ trách, thẳng thắn nhận trách nhiệm, nêu được nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Bức tranh tổng thể có nhiều điểm sáng
Qua các báo cáo của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và nội dung chất vấn hôm nay, Chủ tịch Quốc hội nhận thấy, bức tranh tổng thể trong việc triển khai các yêu cầu của UBTVQH trong các nghị quyết giám sát, kết luận chất vấn của UBTVQH có nhiều điểm sáng.
Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn thấy rằng còn có nhiều nội dung, nhiều chỉ tiêu, yêu cầu chưa đạt, chưa giải quyết dứt điểm hoặc vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục có giải pháp căn cơ để triển khai, khắc phục.
“Đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, tiếp tục tổ chức thực hiện hiệu quả những nội dung yêu cầu tại các nghị quyết và kết luận của UBTVQH”, Chủ tịch Quốc hội nói.
Sẽ công khai rộng rãi tình trạng nợ đọng văn bản
Khép lại phần trả lời của các Bộ trưởng, trưởng ngành, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, thay mặt Chính phủ, phát biểu làm rõ thêm một số vấn đề liên quan thuộc trách nhiệm của Chính phủ và trực tiếp trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.
Phó Thủ tướng nêu rõ: Các kết luận của Quốc hội, UBTVQH rất cụ thể, mốc thời gian gian cụ thể, tạo thuận lợi cho điều hành của Chính phủ, đồng thời cũng tạo áp lực cho các bộ trưởng, trưởng ngành trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao. Chính phủ, Thủ tướng đã tổ chức triển khai nghiêm túc các kết luận… Nhưng tồn tại vẫn còn, trong đó có vấn đề xây dựng pháp luật.
Trả lời chất vấn của các đại biểu về vấn đề xây dựng pháp luật, Phó Thủ tướng cho biết, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm đến vấn đề này, dành nhiều thời gian hơn trong các phiên họp thường kỳ và trong nhiều phiên họp chuyên đề, các Bộ, ngành vào cuộc quyết liệt hơn; trách nhiệm của Bộ trưởng, trưởng ngành rõ rệt hơn.
Quốc hội yêu cầu các Bộ trưởng tiếp thu, giải trình ở diễn đàn Quốc hội nên các Bộ trưởng, trưởng ngành không thể thoái thác được. Thủ tướng cũng giao cho các Phó Thủ tướng vào cuộc các dự án luật từ khi xây dựng chính sách, cho đến các dự án lần 1, lần 2 khi trình Quốc hội. Văn phòng Chính phủ thường xuyên đôn đốc nên có nhiều chuyển biến.
Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng thừa nhận, vẫn còn tồn tại, đó là tình trạng trình chậm, chất lượng dự án luật còn hạn chế, việc rút dự án luật ra giảm mạnh nhưng vẫn còn còn nợ văn bản, thông tư (nợ 18 văn bản, trong đó 2 Nghị định hướng dẫn 2 luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 và 16 văn bản hướng dẫn 7 Luật có hiệu lực vào ngày 1/7/2019.
Nguyên nhân nợ đọng, theo Phó thủ tướng, là do chưa tuân thủ quy trình của Luật Ban hành VBQPPL. Sự quan tâm chỉ đạo của một số “tư lệnh ngành” chưa đánh giá kỹ khi xây dựng, thời gian cho phép ban hành Nghị định còn ngắn, phần lớn đây là vấn đề khó, phức tạp nên việc soạn thảo còn khó khăn. Ngoài ra, sự phối hợp giữa các bộ, ngành còn hạn chế.
Thời gian tới, Phó Thủ tướng cho biết, cần tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Luật Ban hành VBQPPL. Hiện Chính phủ cũng đang hoàn thiện trình Quốc hội tới đây xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Kỳ họp thứ 8 tới.
Cùng với đó, sẽ công khai rộng rãi tình trạng nợ đọng văn bản của từng bộ, ngành. Tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc của lãnh đạo Chính phủ, Tổ công tác của Chính phủ. Tập trung tăng cường hơn năng lực xây dựng và triển khai pháp luật của các bộ, ngành.
“Tham nhũng vặt” – như con đê có thể bị vỡ bất cứ lúc nào do những tổ mối nhỏ
Trả lời chất vấn của đại biểu về “tham nhũng vặt”, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nêu rõ, bên cạnh việc đấu tranh phòng, chống những “đại án”, vụ án lớn về kinh tế, tham nhũng, thì chủ trương của Đảng, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống, tham nhũng cũng như Nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH đều nhấn mạnh đến vấn đề “tham nhũng vặt”.
“Tham nhũng vặt” là tệ nạn gây bức xúc, nhức nhối dư luận nhân dân, liên quan đến đạo đức công chức, viên chức, “tuy là vặt nhưng tác dụng không vặt chút nào”.
Khẳng định điều này, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ ví, “như con đê cao to, hùng vĩ, có thể bị vỡ bất cứ lúc nào do những tổ mối rất nhỏ”, “tham nhũng vặt” có tác động làm phá hoại đạo đức cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực hiện, làm xói mòn niềm tin của người dân và doanh nghiệp, đồng thời làm tăng chi phí không chính thức của người dân, doanh nghiệp.
Bốn giải pháp phòng, chống tham nhũng
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết, thực hiện chủ trương của Trung ương, Quốc hội, UBTVQH, Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp phòng, chống tham nhũng.
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế bảo đảm thống nhất, rõ ràng, không chồng chéo nhau, cản được chuyện tùy tiện trong quá trình thực thi pháp luật, của cả “anh” thực thi và “anh” kiểm tra, cơ quan thanh tra, kiểm toán. Tránh chuyện nhũng nhiễu, sách nhiễu từ chỗ pháp luật.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về quy chế, quy trình cho trách nhiệm thực thi công vụ, đạo đức công vụ, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, đẩy mạnh cải cách hành chính công khai, minh bạch, ứng dụng công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ công lên cấp độ 4,… Có như vậy mới ngăn được người thực thi và người cung cấp dịch vụ công “tham nhũng vặt”. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có hệ thống kiểm tra giám sát bằng công nghệ thông tin, camera giám sát và các hình thức khác.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong công tác quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển, nhất là các ngành có rủi ro cao, nhất là bổ nhiệm cán bộ đứng đầu.
Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân với các phương tiện truyền thông, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, kể cả người được dịch vụ công phục vụ và người cung ứng dịch vụ công là cán bộ, công chức, viên chức, thay mặt cho Đảng và Nhà nước.
ĐBSCL có vị trí chiến lược
Trả lời các chất vấn về phát triển hạ tầng giao thông khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết, Chính phủ luôn quan điểm ĐBSCL có vị trí chiến lược về KT-XH, quốc phòng – an ninh và về nông nghiệp là cứ điểm chiến lược, nên tập trung đầu tư ở đây.
Trong 5 năm qua, tổng đầu tư ngân sách cho khu vực này đứng thứ 3 trong 6 vùng, chiếm 16,9%. Và nếu tính riêng phần ngân sách Trung ương hỗ trợ đứng thứ 3, với 18,26%.
Như vậy, số vốn bố trí cho khu vực này không phải quá thấp, song do vùng này có điểm xuất phát điểm hạ tầng thấp, chia cắt, địa chất yếu, suất đầu tư cao, ứng phó với biến đổi khí hậu. Do đó, suất đầu tư vốn không cao do điều kiện này càng thấp hơn, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Chương trình riêng về đầu tư giao thông ĐBSCL
Phó Thủ tướng nêu rõ, ý thức vấn đề này, trong Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ về ứng phó với biến đổi khí hậu có chương trình riêng về đầu tư hạ tầng giao thông khu vực ĐBSCL.
Trong 5 năm tới sẽ tập trung đầu tư dự án có tính chất liên kết vùng, liên kết tiểu vùng, kết nối ĐBSCL với TPHCM kể cả đường bộ, đường thủy, đường sông, hàng không và đường sắt.
Về đường bộ, Phó Thủ tướng cho biết, sẽ phải đầu tư cả tuyến dọc theo hướng Bắc – Nam và tuyến ngang theo hướng Đông – Tây.
Về đường thủy, không ở đâu có lợi thế như khu vực này, cứ 1km diện tích có 0,6km sông, rạch suối, thích hợp thực hiện logistics, kết nối với các nước lân cận.
Về hàng không, có thể nghiên cứu mở thêm một số đường bay mới kết nối cảng hàng không quốc tế Cần Thơ, sớm nâng cấp cảng hàng không Phú Quốc. Với đường sắt đang điều chỉnh quy hoạch. Tới đây sẽ đầu tư thích đáng. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo vùng phải xây dựng danh mục đầu tư ưu tiên để bố trí vốn trung hạn từ nay đến năm 2025.
Trước mắt, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bố trí 2.146 tỷ đồng cho tuyến Trung Lương – Mỹ Thuận, bố trí Mỹ Thuận – Cần Thơ 920 tỷ đồng từ nguồn vượt thu năm nay. Để bố trí vốn cho các dự án này, Phó Thủ tướng cho biết, Chính phủ chỉ đạo xây dựng nghị quyết trình trình sang UBTVQH.
Khi UBTVQH phê chuẩn chủ trương này, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định phân bổ ngay để cùng với 3 nghìn tỷ đồng vốn của chủ sở hữu, 6 nghìn tỷ đồng vốn của tổ chức tín dụng sẽ cơ bản hoàn thành kết nối, thông tuyến tuyến đường quan trọng này, bảo đảm năm 2021 sẽ lưu thông được.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng thừa nhận, ĐBQH đã chỉ ra rất đúng “vai trò quan trọng của khâu thực hiện”, trong đó có vai trò của Bộ GTVT, UBND tỉnh Kiên Giang, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ sẽ theo dõi việc triển khai công trình này.
Làm tan rã 1.400 đường dây, tổ chức cho vay nặng lãi
Về vấn đề đấu tranh triệt phá các tổ chức cho vay nặng lãi, tín dụng đen, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm nêu rõ, đây là vấn đề bức xúc của xã hội được nhiều đại biểu quan tâm, chất vấn.
Bộ Công an đã nhiều lần đề ra nhiều giải pháp khắc phục, tham mưu cho Chính phủ ban hành Chỉ thị số 12 giải quyết vấn đề vi phạm pháp luật liên quan đến “tín dụng đen”. Trong Chỉ thị cũng phân công trách nhiệm cụ thể cho các cấp, các ngành để thực hiện và Bộ Công an cũng có một chuyên đề riêng để phòng ngừa, đấu tranh loại tội phạm này.
Bộ trưởng cho biết, tính 6 tháng đầu năm 2019, trên toàn quốc, lực lượng công an đã khởi tố hơn 436 vụ và 766 bị can liên quan đến tín dụng đen, bảo kê, đòi nợ thuê. Trong đó, khởi tố 214 vụ, hơn 900 bị can liên quan đến tín dụng đen về tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự, áp dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ, làm tan rã nhiều băng nhóm tội phạm tín dụng đen trên toàn quốc, thống kê làm tan rã 1.400 các đường dây, tổ chức cho vay nặng lãi.
Do trấn áp mạnh, tội phạm liên quan đến tín dụng đen đã được kiềm chế, giảm tính phức tạp so với trước đây, nhiều chỗ tạm dừng hoạt động và hoạt động một cách có cầm chừng và nhân dân đã cảnh giác với hoạt động này.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Tô Lâm, tình hình tín dụng đen, bảo kê, đòi nợ thuê vẫn còn diễn biến phức tạp, có nơi có lúc gây lo lắng cho nhân dân; lưu ý hoạt động cho vay qua internet, tín dụng đen biến chướng qua không gian mạng, rất khó kiểm soát; tiền ảo và tiền thật thông qua internet để giao dịch tiền tệ.
Nguyên nhân được Bộ trưởng chỉ ra là nhu cầu cho vay và sử dụng tín dụng đen trong nhân dân vẫn còn, xử lý tội phạm liên quan đến tín dụng đen còn nhiều khó khăn, do tội phạm sử dụng nhiều phương thức “lách luật”; xác định phạm vi dân sự, hình sự còn khó khăn cho cơ quan thực thi pháp luật. Riêng xử lý theo Điều 201 của Bộ luật Hình sự, hiện nay, cơ quan điều tra Bộ Công an thống kê còn có 21 vấn đề khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ. “Chúng tôi cũng đang phối hợp với các cơ quan để tháo gỡ”, Bộ trưởng cho biết.
Xử lý nghiêm các trường hợp bảo kê
Thời gian tới, Bộ trưởng nêu rõ, chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì khí thế tấn công, trấn áp tội phạm tín dụng đen theo kế hoạch đề ra, không để chủ quan, chùng xuống khi kết quả hiện nay đang trên đà thực thi tốt. Lực lượng công an tiếp tục sử dụng biện pháp nghiệp vụ, kiểm soát, lên danh sách, đấu tranh triệt phá băng nhóm tín dụng đen, bảo kê, đòi nợ thuê ngay từ khi mới hình thành, không để hình thành các tổ chức, nhất là các tổ chức tội phạm.
Điều tra, xử lý nghiêm các tội phạm liên quan đến tín dụng đen, mang tính răn đe cao vừa qua lực lượng công an trên toàn quốc và nhiều địa phương triển khai rất tích cực, công tác tuyên truyền vận động đã làm cho nhân dân hiểu rõ nguy hiểm của tội phạm này.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong phòng ngừa, đấu tranh với vi phạm pháp luật liên quan đến tín dụng đen, trong đó thực hiện hiệu quả Chỉ thị 12 của Thủ tướng Chính phủ phân công, phân cấp cho các ngành, trách nhiệm của các địa phương, đặc biệt là phối hợp của ngành ngân hàng, có thủ tục để người dân dễ dàng tiếp cận vốn vay và có cách quản lý tốt hơn, phù hợp hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, góp phần quan trọng xóa bỏ tín dụng đen.
Về mặt pháp luật, Bộ trưởng cho biết, sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan để tháo gỡ vướng mắc pháp luật, không để tội phạm lợi dụng khe hở của pháp luật, làm cơ sở xử lý phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm tín dụng đen hiệu quả hơn.
“Chúng tôi cũng đặt vấn đề có hay không sự bảo kê cho các lực lượng chức năng này”. Theo Bộ trưởng, qua điều tra hiện nay “chưa phát hiện trường hợp nào bao che, bảo kê cho tín dụng đen của các lực lượng, kể cả trong lực lượng công an”.
“Quan điểm chúng tôi là xử lý nghiêm trường hợp bảo kê, liên quan đến bảo kê, không có vùng cấm nào liên quan đến hoạt động này. Nếu nhân dân, đại biểu Quốc hội phát hiện, chỉ ra vi phạm pháp luật về hoạt động này thì cứ trao đổi thông tin chúng tôi sẽ tích cực điều tra”, Bộ trưởng khẳng định.
Tội phạm kinh tế có chiều hướng gia tăng
Liên quan đến vấn đề tội phạm kinh tế, tham nhũng, buôn lậu hàng giả, nhất trí với đánh giá của Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, những loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng nhiều phương thức, thủ đoạn đa dạng;…
Bên cạnh đó, các loại tội phạm xuyên quốc gia, các hoạt động sản xuất hàng giả, hàng cấm có diễn biến phức tạp, nhất là lợi dụng thương mại điện tử để thực hiện hành vi này, nên đây là khâu rất khó khăn trong quản lý, đấu tranh.
Hơn 4.000 website bán hàng điện tử chưa được đăng ký, tiềm năng xuất hiện rủi ro, vi phạm lớn. Tương tự, hoạt động tín dụng đen trên internet đang phát triển, có 26 công ty thành lập website hoạt động theo mô hình cho vay này, quy mô lớn và chúng ta cũng chưa xử lý được, Bộ trưởng cho biết.
Chính phủ, Quốc hội luôn cam kết giải quyết vấn đề rác thải nhựa
Về vấn đề rác thải nhựa, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết đây là vấn đề lớn không chỉ của Việt Nam mà cả thế giới, ảnh hưởng đến hệ sinh thái, con người.
Dẫn chứng việc trên bàn họp hôm nay không có đồ nhựa dùng một lần, Bộ trưởng TN&MT khẳng định, Chính phủ và Quốc hội luôn cam kết giải quyết vấn đề rác thải nhựa. Bản thân Việt Nam đã có luật quản lý tài nguyên môi trường biển và tham gia những hiệp định quốc tế về vấn đề này.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, công cụ quan trọng để đối phó với vấn đề rác thải nhựa là chính sách thuế, phí áp dụng với các loại nhựa một lần.
Bên cạnh đó, sẽ có cơ chế khuyến khích vật liệu thân thiện môi trường. Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội.
Nếu người dân không sử dụng đồ nhựa dùng một lần, sẽ vừa giảm rác thải, vừa tiết kiệm, đóng góp quan trọng cho thành công chung của chiến lược đối phó vấn đề rác thải nhựa, Bộ trưởng nói.
Chậm ban hành VBQPPL: Trách nhiệm chính thuộc về người đứng đầu
Về tiến độ ban hành văn bản hướng dẫn luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết: Trong thời gian qua, với sự cố gắng của các bộ ngành, Chính phủ, UBTVQH, Quốc hội và ĐBQH, công tác xây dựng pháp luật đạt nhiều kết quả tích cực. Trong 2 năm qua, Chính phủ trình Quốc hội, UBTVQH xem xét, ban hành 26 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết khác nhau, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh. Trong đó, có những dự án ban hành kịp thời, có sự thống nhất cao, mang lại tác dụng nhanh chóng.
Ví dụ như “Nghị quyết của UBTVQH giải thích một số điều của Luật Quy hoạch được dư luận đánh giá cao, ngay lập tức tháo gỡ vướng mắc trong quá trình điều chỉnh quy hoạch hiện nay, giúp thực hiện công tác xây dựng quy hoạch trong thời gian tới”, Bộ trưởng khẳng định.
Về ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, Bộ trưởng cho biết, qua rà soát 26 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết được Quốc hội thông qua có khoảng 10 văn bản có tiến độ xây dựng chậm. Cá biệt có văn bản trình rất chậm khiến UBTVQH, Quốc hội phải thay đổi chương trình hay đưa ra khỏi chương trình.
Liên quan đến thực hiện công tác thẩm định văn bản pháp luật, Bộ trưởng nêu rõ, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp có 20 ngày để thẩm định từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. Nhưng có những dự án luật chỉ thẩm định trong 5 ngày, cá biệt có dự án luật quan trọng chỉ thẩm định trong 3 ngày…
Để khắc phục những hạn chế này, Bộ trưởng cho biết, sẽ thực hiện nghiêm quy định liên quan tại Luật Ban hành văn bản pháp luật, cũng như chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Bộ trưởng cũng nêu rõ, vấn đề xây dựng thể chế, trách nhiệm của các bộ ngành được nhắc đến trong 19 nghị quyết phiên họp thường kỳ, chuyên đề của Chính phủ.
Bộ trưởng Lê Thành Long cho rằng, trách nhiệm chính thuộc về bộ trưởng, trưởng ngành, các bộ ngành. Chúng ta cố gắng rồi nhưng cần tiếp tục phát huy, đặc biệt thực hiện nghiêm ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp cũng sẽ nâng cao chất lượng hội đồng thẩm định. Bộ cũng sẽ đôn đốc, bám sát các bộ ngành trong quá trình xây dựng dự án luật, trong đó, Bộ Tư pháp đã cử một chuyên gia cao cấp tham gia ngay từ đầu quá trình xây dựng dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi).
Cùng với đó, các cơ quan cần cân nhắc khi đề xuất dự án luật đưa vào chương trình, vì có xu hướng ôm đồm, chưa dự liệu hết vấn đề phát sinh. Một khi đã đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải có kế hoạch, bám sát tiến độ thực hiện. Khi bắt đầu nên bàn định hướng trước, huy động trí tuệ chuyên gia, cơ quan liên quan để làm một mạch, không phải làm đi làm lại.
Sẽ ban hành 3 quy chuẩn quan trọng trong đầu tư xây dựng
Trả lời đại biểu về vấn đề xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn về xây dựng, Bộ trưởng Phạm Hồng Hà cho biết, ngành xây dựng hiện có 1.200 tiêu chuẩn. Thời gian qua, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng đã phục vụ tốt quá trình phát triển ngành xây dựng, cũng như quá trình phát triển kinh tế – xã hội chung.
Song cũng còn một số hạn chế, nên Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án đổi mới hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng. Theo lộ trình, đến năm 2021 sẽ sửa đổi, bổ sung những tiêu chuẩn, quy chuẩn cốt lõi, còn những tiêu chuẩn khác sẽ được hoàn thành đến năm 2030.
Bộ trưởng cho biết, ngay trong năm 2019, thực hiện Nghị quyết của UBTVQH, Bộ Xây dựng sẽ ban hành 3 quy chuẩn quan trọng trong hoạt động đầu tư gồm: Quy chuẩn về quy hoạch; Quy chuẩn về nhà chung cư; Quy chuẩn về phòng cháy, chữa cháy.
Thông tin tiêu cực trên mạng còn dưới 10%
Về quản lý thông tin trên mạng xã hội, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, vừa qua Bộ TT&TT đã đầu tư, xây dựng vận hành trung tâm giám sát an toàn mạng quốc gia. Trung tâm này có hai chức năng gồm: Giám sát các cuộc tấn công mạng vào Việt Nam và thông tin trên không gian mạng. Trung tâm này có khả năng xử lý mỗi ngày khoảng 100 triệu tin và phân loại, đánh giá được tỷ lệ tin tiêu cực, tích cực.
“Trước đây, tỷ lệ thông tin tiêu cực trên mạng đánh giá là trên 30%, bây giờ chúng ta nhìn thấy và có tác động điều chỉnh, các tiêu cực cơ bản nằm dưới 10%”, Bộ trưởng nói.
Câu chuyện nan giải thứ hai, theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, là đấu tranh với các trang mạng nước ngoài, trong khi họ chưa có văn phòng đại diện tại đây, chưa đóng thuế, chưa thực thi luật pháp. Thời gian qua, Bộ đã rất tích cực, cụ thể, với Facebook trước đây, Nhà nước đưa ra yêu cầu thực hiện được khoảng 30%, bây giờ tỷ lệ thực hiện yêu cầu của Facebook đối với chính quyền là 70 – 80%; Youtube tuân thủ tốt hơn, trước đây 60%, bây giờ là 80 – 85%, Apple thì trước không thực hiện, bây giờ gần như thực hiện 75% các yêu cầu…
Không để “não” người Việt Nam ở nước ngoài
Về vấn đề xây dựng mạng xã hội Việt Nam, Bộ trưởng lý giải, nếu như Việt Nam không có mạng của chính mình thì tất cả những gì chúng ta đọc, mua, bán thì đều lưu trữ ở nước ngoài. “Nói vui là não người Việt Nam ở nước ngoài”, Bộ trưởng ví von.
Do đó, chúng ta đặt mục tiêu xây dựng mạng xã hội trong nước, để mạng xã hội trong nước có lượng người dùng tương đương với mạng xã hội nước ngoài, để “não” người Việt Nam phân tán đều, không có bất kỳ nhà mạng nào thu thập được toàn bộ thông tin về người Việt Nam.
Bộ trưởng cho biết, hiện nay, các mạng xã hội Việt Nam có khoảng 65 triệu thuê bao, trong một năm tăng trưởng khoảng 30%. Các mạng xã hội cộng lại là khoảng 90 triệu. Với tốc độ tăng trưởng hiện nay của mạng xã hội nước ta, Bộ trưởng kỳ vọng, “trong khoảng năm 2020 – 2021 chúng ta sẽ đạt câu chuyện 50 – 50”.
Còn sim rác, nhà mạng sẽ không được cấp phép dịch vụ mới
Liên quan đến câu chuyện không mới – “sim rác”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, đây là câu chuyện lớn, xảy ra nhiều năm, và “trong những năm qua, chúng ta đã cắt bỏ sim không đủ thông tin, nhưng giờ vẫn còn lượng sim lớn đang nằm trên các kênh bán lẻ.
Bộ trưởng cho biết, từ nay đến tháng 9, các cơ quan truyền thông sẽ tập trung giải quyết chuyện sim rác bằng cách các nhà mạng mua lại. Giải pháp mới cho chuyện sim rác là giao trách nhiệm trực tiếp đến tổng giám đốc công ty truyền thông.
“Nếu như còn tồn tại sim rác trên các nhà mạng, nhà mạng sẽ không được cấp phép các dịch vụ mới”, Bộ trưởng nói.
Gần 1 triệu người hoạt động khai thác thủy sản
Bộ trưởng NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, hiện Việt Nam có khoảng 95.500 tàu các loại, xấp xỉ 1 triệu nhân lực hoạt động khai thác thủy sản. Thực tế này đặt ra 3 vấn đề là: Làm sao khai thác hiệu quả; vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ chủ quyền; ứng phó thiên tai.
Thực tế này đang đặt ra ba vấn đề. Một là, làm sao khai thác hiệu quả. Hai là, làm sao vừa hỗ trợ ngư dân khai thác hiệu quả, vừa tham gia bảo vệ biển. Ba là, nước ta nằm ở khu vực “rốn bão” trên khu vực Thái Bình Dương, nên công tác ứng phó với thiên tai phải thực hiện nhiều công việc.
Trong các công việc để ứng phó với thiên tai, Bộ trưởng tán thành với quan điểm của đại biểu cho rằng “cần quan tâm công tác tuyên truyền cho ngư dân”, đồng thời tăng cường cơ sở vật chất.
Thời gian qua, Bộ NNPTNT đã phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, 28 tỉnh duyên hải thường xuyên thực hiện tuyên truyền, bảo đảm đi khai thác an toàn, ứng phó với thiên tai. Do tăng cường tuyên truyền, nên trong 2 năm qua đã có trên 2 triệu phương tiện di dời, tổng số 9,5 triệu người được di dời, cơ bản bảo đảm an toàn. Bộ trưởng khẳng định, đây là kết quả chứng minh sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương và các nghiệp đoàn trong thực hiện tuyên truyền.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng tập trung tuyên truyền để đảm bảo hiệu quả khâu liên kết, thành lập nghiệp đoàn nghề cá. Ví như ở Khánh Hòa và một số tỉnh đang có nhiều mô hình liên kết bạn tàu, hỗ trợ lẫn nhau, ngư dân cùng với doanh nghiệp liên kết khai thác, tiêu thụ sản phẩm.
Về trang thiết bị, thực hiện quy định của Luật Thủy sản, Bộ trưởng cho biết, với loại tàu trên 24 m đang triển khai lắp đặt máy hành trình giám sát; loại tàu từ 15 – 24m đang triển khai trang bị toàn bộ máy móc. Việc triển khai quy định của Luật Thủy sản do kinh tế biển nước ta có nhiều tiềm năng phát triển, song cũng có những khó khăn nhất định.
Đồng thời, chúng ta cũng đang quyết liệt triển khai các nhóm giải pháp để sớm khắc phục được thẻ vàng, trở về trạng thái thẻ xanh.
Ba nguyên tắc xây dựng cao tốc Bắc – Nam
Trả lời chất vấn của đại biểu về việc thực hiện dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, do đây là dự án quan trọng quốc gia, nên Chính phủ xác định thực hiện dựa trên ba nguyên tắc.
Nguyên tắc thứ nhất, đây là dự án trọng điểm quốc gia nên trình tự, thủ tục thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Nguyên tắc thứ hai là tiến hành đấu thầu công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật.
Nguyên tắc thứ ba, đây là công trình trọng điểm quốc gia, ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, kinh tế – xã hội nên phải chú ý yếu tố an ninh, quốc phòng.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cũng cho biết, thời gian qua, Bộ GTVT đang triển khai nhiều thủ tục liên quan. Hiện Bộ GTVT đã phê duyệt dự án, đang triển khai thiết kế, thi công vượt dự toán.
Bộ cũng đã xin báo cáo với Thường trực Chính phủ tại nhiều cuộc họp. Thường trực Chính phủ cũng đang xin ý kiến các cơ quan lãnh đạo để thực hiện dự án này sẽ bảo đảm đạt ý nghĩa kinh tế, cũng như bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Cuối năm 2020 sẽ cơ bản thông xe tuyến Trung Lương – Mỹ Thuận
Về triển khai dự án cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận, Mỹ Thuận – Cần Thơ và cầu Mỹ Thuận 2, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, đường cao tốc TPHCM – Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ là một trong những trục đường quan trọng nhất đồng bằng sông Cửu Long. Chính phủ đã triển khai dự án này cách đây gần 10 năm, nhưng đến thời điểm này tiến độ vẫn chậm.
Đối với đoạn từ Trung Lương – Mỹ Thuận, vừa qua Chính phủ đã quyết định bổ sung 2.186 tỷ đồng hỗ trợ cho nhà đầu tư và cho nhà đầu tư điều chỉnh lại dự án và đã được UBND tỉnh Tiền Giang phê duyệt. UBND tỉnh Tiền Giang và cơ quan nhà nước có liên quan đã điều chỉnh hợp đồng, đưa vào điều khoản liên quan đến trách nhiệm của nhà đầu tư. Về phía nhà nước đã hỗ trợ phương án tài chính khả thi, hiện nay, phần vốn nhà đầu tư đã bỏ vào hơn 3.000 tỷ đồng và vốn còn lại liên quan đến cơ quan tín dụng.
Chính phủ đã họp giao Thống đốc NHNN chỉ đạo các ngân hàng và vốn liên doanh để hỗ trợ khoảng 6.000 tỷ đồng cho dự án Trung Lương – Mỹ Thuận. Với sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các tổ chức tín dụng đã phối kết hợp để bổ sung vốn, nếu được vốn tín dụng này cùng với vốn nhà nước và nhà đầu tư thì dự án đến cuối năm 2020 sẽ cơ bản thông xe từ Trung Lương – Mỹ Thuận và hoàn thành toàn bộ công tác này trong năm 2021.
Không có thu phí tự động không dừng sẽ bị dừng thu phí
Về tiến độ triển khai thu phí không dừng, Bộ trưởng cho biết, theo quyết định 07 của Thủ tướng Chính phủ năm 2017 thì đến 31/12/2019 toàn bộ trạm thu phí trên toàn quốc phải thu phí tự động, không dừng. Cách đây khoảng 1 tháng, Thủ tướng tiếp tục có Nghị định trên phạm vi toàn quốc chỉ đạo Bộ GTVT và các nhà đầu tư khẩn trương thực hiện công tác này.
Bộ trưởng cho biết, chúng ta có 2 nhà đầu tư cung cấp dịch vụ không dừng, do đó các nhà đầu tư có nhiều lựa chọn, hàng tháng Bộ đều họp giao ban và có văn bản nhắc nhở các chủ đầu tư, đây là trách nhiệm của các chủ đầu tư BOT, tư vấn đã có sẵn, sự sẵn sàng các nhà đầu tư trong điều kiện hợp đồng và trong phối hợp thực hiện, nếu nhà đầu tư phối hợp tốt thì chúng ta triển khai nhanh.
Bộ trưởng cũng cho biết, sau khi họp chỉ có một đơn vị quan ngại nhất, đó là Tổng công ty đường cao tốc Việt Nam – đây là công ty 100% vốn nhà nước, trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước. Tổng công ty này có 226 làn thu phí tự động không dừng, nhưng đến thời điểm này triển khai chậm.
Chúng tôi sử dụng giải pháp là có văn bản đến Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước để báo cáo tình hình, nếu tình hình không cải thiện và chậm, trách nhiệm hoàn toàn thuộc nhà đầu tư. Và đến 31/12/2019 không hoàn thành thì chúng tôi sẽ tạm dừng thu phí toàn bộ các trạm thu phí không có thu phí tự động không dừng.
“Hiện nay chúng tôi thực hiện kiểm tra tiến độ hàng tháng, có giải pháp để nhà các đầu tư không bất ngờ, nếu cứ chây ì thì phải chấp nhận hậu quả kinh tế theo chỉ đạo của Thủ tướng”, Bộ trưởng nói.
Tiếp tục xã hội hóa các cảng hàng không
Về vấn đề xã hội hóa các cảng hàng không, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, hiện cả nước có 22 sân bay nhưng chỉ có sân bay Vân Đồn do nhà đầu tư quản lý; 21 sân bay còn lại, Chính phủ đã giao giao Tổng Công ty Cảng Hàng không Việt Nam (ACV) quản lý.
Trong cơ cấu vốn của ACV, vốn Nhà nước chiếm 95,6%, do đó ACV có trách nhiệm đầu tư 21 sân bay. “Với 21 sân bay này, chỉ 8 sân bay có lợi nhuận, còn lại thu không đủ chi. Các nhà đầu tư bên ngoài chủ yếu tập trung vào các cảng hàng không có lợi nhuận cao”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết.
Theo Bộ trưởng, khi để các doanh nghiệp tham gia đầu tư sân bay sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu của ACV, ảnh hưởng đến nguồn thu của doanh nghiệp Nhà nước, tài sản Nhà nước.
“Quan điểm của Chính phủ là tiếp tục xã hội hóa nhưng theo hình thức khác. Ví dụ, Cảng hàng không Lào Cai đang kêu gọi đầu tư, nếu doanh nghiệp quan tâm thì làm từ đầu cả hạng mục sinh lợi và không sinh lợi để đảm bảo hài hòa lợi ích”, ông Nguyễn Văn Thể phân tích.
Sau phần trả lời của Bộ trưởng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân góp ý, từ thành công của việc xã hội hóa xây dựng sân bay Vân Đồn, Bộ Giao thông vận tải cần nghiên cứu ý kiến của đại biểu, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư các sân bay khác.
“Những cảng hàng không hiện nay thu không đủ chi, cơ chế phải thay đổi thế nào? Ngay cả sân bay Long Thành – dự án trọng điểm quốc gia nhưng có thể phát huy kinh nghiệm từ Vân Đồn, có thể chia ra từng gói, cái nào Nhà nước đầu tư, cái nào xã hội hóa để doanh nghiệp đầu tư. Bộ Giao thông vận tải phải tham mưu cho Chính phủ. Chủ trương làm sân bay Long Thành của Quốc hội còn thực hiện thế nào hiệu quả nhất, nhanh nhất là do sự điều hành của Chính phủ”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Xuất khẩu lao động: Số lượng tăng, thị trường mở rộng
Về việc quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, số lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài ngày càng tăng, năm 2017 có xấp xỉ 127.000 người; năm 2018 có khoảng 143.000 người Việt Nam sang lao động tại nước ngoài. Thời gian qua, không chỉ số lượng, địa bàn lao động cũng được mở rộng tới các thị trường mới như Australia, Đức, Romania và gần đây nối lại với Czech sau một thời gian gián đoạn.
Về vấn đề Việt Nam có chi phí môi giới cao, Bộ trưởng giải thích tại một số nước, các doanh nghiệp chỉ đưa người lao động đi sang nước ngoài lao động là hết trách nhiệm. Trong khi đó, tại Việt Nam, các doanh nghiệp còn phải quản lý, thậm chí tham gia xử lý những việc liên quan đến người lao động khi có vấn đề xảy ra tại nước đối tác.
Hiện nay, có khoảng 350 doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đưa người Việt Nam sang nước ngoài làm việc. Bộ trưởng khẳng định doanh nghiệp Việt Nam căn cứ vào các quy định pháp luật và hiệp định lao động giữa 2 nước để quy định mức tiền chi trả.
Đối với tình trạng lao động Việt Nam phá vỡ hợp động, tự ý bỏ ra ngoài làm việc, Bộ trưởng thông tin “chuyện này chủ yếu xảy ra ở Hàn Quốc”. Năm 2016 được đánh giá là năm có tỷ lệ lao động bỏ ra ngoài cao nhất, ở mức 55%. Tuy nhiên đến nay, con số này còn 33% và nước đối tác cho rằng đây là tỷ lệ chấp nhận được.
Gắn kết giữa nhà trường và DN được đẩy mạnh
Trả lời chất vấn của đại biểu về vấn đề giáo dục nghề nghiệp, Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung cho biết, sau khi có Nghị quyết của UBTVQH và quyết định về thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, toàn ngành và lãnh đạo Bộ LĐTB&XH đã tập trung và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Bộ phấn đấu số người học nhiều hơn, chất lượng đào tạo nâng lên, đầu ra phải được cải thiện, tạo được sự ủng hộ của xã hội về giáo dục nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nội dung này đã được ban hành đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Theo đó có 63 văn bản khác nhau với 8 Nghị định của Chính phủ quy định và hướng dẫn về giáo dục nghề nghiệp.
Về tuyển sinh, kết quả tuyển sinh năm 2019 đã đạt và vượt cùng kỳ năm 2018, đầu vào cao hơn. Gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp được tích cực đẩy mạnh, các nhà trường ký hợp tác với doanh nghiệp và đặt hàng cho đầu ra.
Dự kiến đến tháng 9 Chính phủ sẽ tổ chức một diễn đàn quy mô lớn liên quan đến nâng cao, nâng tầm kỹ năng cho lao động Việt Nam. Nhiều học sinh trường nghề sau khi tốt nghiệp đã có việc làm ngay; các trường nghề đã có cam kết về đầu ra và mức lương cơ bản cho lao động. Tuy nhiên, Bộ LĐTB&XH vẫn ý thức đây mới là kết quả ban đầu, cần có sự cố gắng, phát huy nhiều hơn nữa trong thời gian tới.
Giải quyết triệt để các vướng mắc về chính sách
Về tiến độ sửa đổi Pháp lệnh người có công, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, trong tháng 10 này Bộ sẽ trình việc sửa đổi Pháp lệnh người có công; theo lộ trình, tháng 12 sẽ trình chính thức tới UBTVQH.
Thời gian vừa qua, Bộ đã có sự phối hợp chặt chẽ với Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội, các thủ tục và quy trình sửa đôi Pháp lệnh về cơ bản đã đảm bảo tiến độ. Việc lấy ý kiến được tổ chức rộng rãi; đã lấy xong ý kiến các cấp, các ngành, các địa phương; đang tổ chức lấy ý kiến nhân dân và gửi xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội. Đảm bảo đúng tinh thần và lộ trình là tháng 12 tới đây sẽ trình Dự án Pháp lệnh người có công sửa đổi ra UBTVQH.
Một số trường hợp là cụ thể về truy tặng liệt sĩ mà quy định của pháp luật chưa điều chỉnh thì Bộ đang trình xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ để đưa ra văn bản cá biệt để giải quyết những trường hợp các biệt…
Về chính sách đối với bà mẹ Việt Nam anh hùng, Bộ trưởng cho biết, Pháp lệnh về bà mẹ Việt Nam anh hùng vẫn còn nhiều điểm vướng, Bộ đã phối hợp với một số Bộ, ngành hữu quan đã kiến nghị Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng để trình Chính phủ tiếp thu các ý kiến để giải quyết một số điểm vướng mắc về chính sách để giải quyết triệt để.
Đời sống đồng bào được nâng lên rõ rệt
Về công tác giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Đỗ Văn Chiến đánh giá kết quả đạt khá tốt, tốc độ giảm khoảng 4-5%/năm.
Đời sống đồng bào được nâng lên rõ rệt. So với yêu cầu thì chúng ta còn nhiều việc cần làm, nhưng so với chính mình thì đã có bước tiến, Bộ trưởng nói.
Theo Bộ trưởng, hiện tại, cả nước có 1,3 triệu hộ nghèo, trong đó có 720.000 hộ dân tộc thiểu số.
Nguyên nhân chủ yếu là thiếu tư liệu sản xuất và sinh kế. Ngoài ra chính sách phân tán, nhiều đầu mối quản lý, chưa bố trí được nguồn lực. Trong khi đó, có nhiều hộ dân tộc thiểu số vẫn di cư.
Bộ trưởng cho biết Quốc hội đã đồng ý bố trí vốn trung hạn khoảng 1.000 tỷ đồng để thực hiện các quyết định của Thủ tướng về giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Số tiền này đang được Bộ KH&ĐT bố trí. Khi có nguồn lực, cơ quan chức năng sẽ có nhiều biện pháp để thực hiện các mục tiêu giảm nghèo.
Bố trí nguồn lực thực hiện các chính sách dân tộc
Liên quan đến cân đối nguồn lực thực hiện chính sách dân tộc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho biết, thực hiện thông báo kết luận của UBTVQH số 2198 về ưu tiên bố trí đủ nguồn lực vốn cho thực hiện các chính sách dân tộc, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành trong đó có Ủy ban Dân tộc rà soát và đã có rất nhiều cố gắng trong bố trí vốn.
Riêng đối với các chính sách mà do Ủy ban Dân tộc quản lý, năm 2019 đã bố trí 5.508,554 tỷ đồng để thực hiện các nhiệm vụ chính. Một là cho chương trình 135 là 3.940 tỷ đồng, vốn AiLen được UBTVQH thông qua 80 tỷ đồng đã thông báo. Vốn thực hiện cấp báo chí và tạp chí, radio 160 tỷ; vốn thực hiện quyết định số 2086 và số 2085 là 328 tỷ.
Những nội dung mà các chính sách thực hiện, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc nêu, trong năm 2019 Ủy ban Dân tộc được bố trí vốn tăng hơn, tuy nhiên chưa đủ vì một số vốn thuộc vốn đầu tư công đã được Quốc hội quyết định do vậy chưa thể điều chỉnh được. Những nhiệm vụ chính thì triển khai của Ủy ban Dân tộc cơ bản là vốn được cấp tăng hơn so với những năm trước và tập trung hơn.
Thiết kế một hợp phần riêng cho nhóm dân tộc thiểu số rất ít người
Về kết quả thực hiện đề án hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025 theo Quyết định 2086 của Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến đánh giá là đạt kết quả bước đầu nhưng chưa đạt mục tiêu và chỉ tiêu đề ra trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định này tập trung hỗ trợ cho 194 thôn, 97 xã, 37 huyện ở 12 tỉnh thuộc 16 dân tộc thiểu số dưới 10.000 người, đời sống còn rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, Chính phủ đã bố trí được 426 tỷ vốn sự nghiệp cấp cho Bộ Tài chính, vốn sự nghiệp đã đủ. Còn vốn đầu tư, Quốc hội đã quyết định từ vốn đầu tư công trung hạn. Thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ đã trình tại Kỳ họp thứ 7 và Quốc hội đã thông qua bố trí 1.000 tỷ để thực hiện Quyết định 2085 và Quyết định 2086.
Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thu xếp và trong thời gian sớm nhất sẽ thông báo vốn này. Như vậy trong thời gian tới năm 2019 và 2020 sẽ phân bổ và ưu tiên cho Quyết định 2086 đối với nhóm dân tộc thiểu số rất ít người.
Về quan điểm chỉ đạo thực hiện của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến nêu rõ, Chính phủ coi thực hiện hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người là một điểm nhấn mà cần phải hết sức lưu ý trong chỉ đạo giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn Chính phủ đã thông qua ngày 1/8/2019 tại Kết luận số 59 của Chính phủ đã nêu rõ là sẽ xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia và sẽ thiết kế một hợp phần riêng cho nhóm dân tộc thiểu số rất ít người.
Vấn đề có đảm bảo được 1.861 tỷ để phục vụ cho đề, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho biết thêm sẽ cố gắng cao nhất bố trí cho năm 2019 – 2020. Giai đoạn sau sẽ tích hợp vào đề án tổng thể chương trình mục tiêu quốc gia và sẽ cố gắng cao nhất có được nguồn lực nào thì ưu tiên thực hiện Quyết định 2086.
Hành lang pháp lý về KHCN và đổi mới sáng tạo ngày càng được hoàn thiện
Trình bày Báo cáo tổng hợp nội dung thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về việc thực hiện các nghị quyết, kết luận của UBTVQH về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết năm 2018, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, tính từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIV đến hết năm 2018, UBTVQH đã ban hành 4 nghị quyết về giám sát chuyên đề và 4 thông báo kết luận về chất vấn.
Liên quan đến việc thực hiện các nghị quyết của UBTVQH về giám sát chuyên đề, cụ thể là: Nghị quyết số 297/NQ-UBTVQH14 về nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển khoa học, công nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2015-2020, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo, Tổng thư ký Quốc hội nêu rõ, hành lang pháp lý về KHCN và đổi mới sáng tạo ngày càng được hoàn thiện. Kinh phí ngoài ngân sách đầu tư cho hoạt động KHCN có xu hướng tăng.
Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển nhanh. Hạ tầng kỹ thuật, hệ thống phòng thí nghiệm và trang thiết bị nghiên cứu được nâng cấp, hiện đại hóa. Một số trường đại học, viện nghiên cứu theo mô hình tiên tiến, hiện đại được hình thành.
Việc triển khai các nhiệm vụ KHCN ngày càng minh bạch; thị trường công nghệ bước đầu phát huy vai trò cầu nối, gắn kết hoạt động KHCN với sản xuất, kinh doanh. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo đã dần phát huy tác dụng; hàm lượng KHCN trong các sản phẩm ngành công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo tăng; nhiều sản phẩm, công nghệ mới được tạo ra; số lượng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả ngày một tăng, năng lực thiết kế, chế tạo và sản xuất được cải thiện.
Tuy nhiên, sự liên kết giữa các tổ chức KHCN trong các ngành, lĩnh vực từ trung ương đến địa phương, giữa các tổ chức nghiên cứu, phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp chưa thực sự chặt chẽ.
Hoạt động của một số tổ chức và chất lượng đội ngũ cán bộ KHCN chưa cao; thiếu cơ chế để xây dựng các tập thể khoa học mạnh, các viện nghiên cứu, trường đại học đẳng cấp quốc tế; cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị nghiên cứu còn thiếu, chưa đồng bộ.
Hoạt động mua, bán công nghệ và chuyển giao kết quả nghiên cứu còn hạn chế. Năng lực tiếp thu, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp không cao. Nhiều nhà máy cơ khí vẫn sử dụng các máy móc lạc hậu. Việc chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI còn hạn chế.
Ngành cơ khí vẫn thiếu đồng bộ, tỷ lệ n