BVR&MT – Phát triển nông nghiệp, tăng thu nhập, góp phần giảm nghèo cho bà con vùng biên là hướng đi chủ đạo được các cấp chính quyền huyện Mường Lát quan tâm, chú trọng trong nhiều năm qua. Song, bài toán “trồng cây gì, nuôi con gì” để bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây thoát được cái nghèo đến nay vẫn còn nhiều trăn trở.
Nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún…
Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 29-9-2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ, sau hơn 25 năm thành lập huyện, bên cạnh những kết quả đạt được, về cơ bản huyện Mường Lát vẫn là huyện nghèo nhất của tỉnh và là một trong những huyện nghèo nhất cả nước. Trong đó, sản xuất nông nghiệp chủ yếu là tự cung, tự cấp; chưa xác định được cây trồng chủ lực, phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng; chưa có nhiều con nuôi đặc sản để trở thành hàng hóa có giá trị…
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan do điều kiện địa hình, địa bàn, khí hậu thì nguyên nhân chủ quan được chỉ ra, đó là do tư duy chậm đổi mới, “ngại” thoát nghèo của bà con, sự dựa dẫm vào chính sách hỗ trợ trực tiếp còn nặng nề. Đơn cử, trong chăn nuôi, Mường Lát thuận lợi để phát triển nhiều loại vật nuôi như: dê, bò, lợn mán, vịt cổ rụt… Tuy nhiên, những mô hình chăn nuôi trên chỉ mang tính nhỏ lẻ hộ gia đình, chưa được xây dựng phát triển thành những mô hình sản xuất mang tính hàng hóa. Mô hình chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt thương phẩm, dù lợi nhuận đem lại khá cao, thị trường ổn định, song chưa có nhiều người nuôi, chỉ tập trung số ít ở một bộ phận thanh niên trẻ. Người dân chưa chú trọng, phát triển theo hướng nuôi thả tự do trên đồi núi, công tác chuồng trại, nguồn thức ăn cũng như phòng dịch cho vật nuôi chưa được quan tâm.
Ông Trần Văn Thắng, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mường Lát, cho biết: Đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ phát triển chăn nuôi từ Hội LHPN, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên… Tuy nhiên, sau hỗ trợ, số vật nuôi không những không tăng mà việc duy trì mô hình này cũng đang là bài toán chật vật. Vật nuôi chết do thiếu chăm sóc, chăm sóc không đúng kỹ thuật, dịch bệnh… Hệ quả là thay vì thoát nghèo, cuộc sống người dân vẫn luẩn quẩn trong khó khăn.
Vật nuôi không mang lại sự đổi thay thì bà con lại hy vọng vào cây trồng với quỹ đất rộng lớn, nhưng rồi đâu lại vào đấy. Ông Vi Văn Thứ, Phó Chủ tịch UBND xã Quang Chiểu thừa nhận việc phát triển cây xoan trên địa bàn xã sau hơn 10 năm là thất bại. Thời gian qua, các cấp chính quyền từ huyện đến xã cũng đã xây dựng, phát triển nhiều mô hình trồng cây ăn quả, cây dược liệu (như cam, quýt, gai xanh…), song hiệu quả đem lại cũng không thực sự rõ rệt. Nguyên nhân do tư duy sản xuất của người dân còn nhiều hạn chế, lạc hậu; quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa hình thành vùng sản xuất tập trung; yếu tố thị trường thiếu ổn định, đầu ra thiếu bền vững; kỹ thuật chăm sóc, ứng dụng khoa học, kỹ thuật của người dân còn hạn chế, dẫn đến chất lượng nông sản chưa cao, chưa được thị trường đánh giá.
Phát huy nguồn lực, tận dụng thời cơ
Hiện tại huyện Mường Lát đã, đang được thụ hưởng nhiều chính sách hỗ trợ từ 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (XDNTM; Xóa đói, giảm nghèo bền vững và Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi), đặc biệt là Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 29-9-2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trên cơ sở điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, phong tục tập quán, trình độ sản xuất của người dân, Nghị quyết số 11-NQ/TU đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là phân chia 8 xã, thị trấn của huyện Mường Lát thành 4 khu vực để định hướng phát triển kinh tế. Theo đó, khu vực 1 (gồm 3 xã Trung Lý, Mường Lý, Tam Chung), tập trung phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản khu vực lòng hồ thủy điện Trung Sơn. Khu vực 2 (gồm 2 xã Quang Chiểu và Mường Chanh), xây dựng thành nơi sản xuất nông nghiệp tập trung, chú trọng phát triển vùng trồng lúa năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; đưa các cây trồng có giá trị kinh tế cao vào sản xuất. Khu vực 3 (gồm 2 xã Pù Nhi và Nhi Sơn), tập trung phát triển vùng trồng cây ăn quả, cây dược liệu có giá trị kinh tế cao theo quy trình sản xuất sạch, an toàn, gắn với thị trường tiêu thụ. Khu vực 4 (thị trấn Mường Lát), tập trung phát triển thương mại, dịch vụ, xây dựng thành trung tâm giao thương hàng hóa, đầu mối của các hoạt động dịch vụ, thương mại của huyện Mường Lát với các địa phương trong tỉnh…
Để đảm bảo nguồn vốn cho đầu tư, phát triển sản xuất, Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Mường Lát đã phối hợp triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách 16 chương trình tín dụng ưu đãi theo quy định. Chủ động khảo sát nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn huyện để đáp ứng nhu cầu vay phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Điển hình như, từ nguồn vốn vay Ngân hàng Chính sách xã hội huyện, đã hình thành nhiều mô hình kinh tế tiêu biểu trong lực lượng đoàn viên, thanh niên, như: mô hình trồng sắn cao sản, chăn nuôi bò thịt của thanh niên Vi Văn Đợi, ở khu phố Buốn, thị trấn Mường Lát; mô hình nuôi con đặc sản vùng cao của thanh niên Lò Thị Quyến, ở khu 2, thị trấn Mường Lát…
Ông Trần Văn Thắng, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mường Lát cho biết thêm: Mới đây, ngày 21-8-2023, Viện Nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa công bố, bàn giao kết quả nghiên cứu, xây dựng bản đồ Thổ nhưỡng – Nông hóa huyện Mường Lát. Đây được xem là chiếc “chìa khóa” để huyện Mường Lát triển khai trồng các loại cây trên từng khu đất cho phù hợp với loại đất, khí hậu, cũng như lựa chọn chăn nuôi thích ứng với các kiểu khí hậu, thời tiết phù hợp.
“Dựa trên định hướng từ Nghị quyết 11, cũng như bản đồ thổ nhưỡng – nông hóa, thời gian tới, huyện sẽ tập trung tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho bà con để phát triển một số loại cây trồng chủ lực như: lát, trẩu, thông, đào, mận, chuối, măng tre bát độ, lúa nếp Cay Nọi… Bên cạnh đó, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, tận dụng nguồn vốn ưu đãi để bà con phát triển, nhân rộng các mô hình chăn nuôi, các loại vật nuôi mang tính hàng hóa, giá trị cao.” – ông Thắng nhấn mạnh.