BVR&MT – Trong khi thế giới chỉ còn khoảng 3.900 cá thể hổ hoang dã thì điều tra năm 2017 của Cơ quan Điều tra Môi trường (EIA) ước tính có hơn 8.000 cá thể hổ đang bị nuôi nhốt tại Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Việt Nam trong các cơ sở thương mại từ nhỏ tới lớn. Nhiều bằng chứng cho thấy hổ nuôi cùng các bộ phận của chúng tham gia vào cả hoạt động buôn bán hợp pháp và bất hợp pháp, chủ yếu phục vụ nhu cầu làm thuốc và đồ trang trí tại Trung Quốc và Việt Nam. Theo báo cáo của EIA, trong thập kỷ qua, khoảng 40% số hổ bị bắt giữ do buôn bán bất hợp pháp có nguồn gốc nuôi nhốt.
Nuôi hổ vẫn được biện minh là một giải pháp giúp giảm áp lực đối với quần thể hổ hoang dã, tuy nhiên tác động thực sự của hoạt động này đối với nạn săn trộm và nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm từ hổ chưa bao giờ được đánh giá.
Một nghiên cứu mới công bố trên Tạp chí Bảo tồn Thiên nhiên đã thử đánh giá những giá động có thể xảy ra của việc nuôi hổ hợp pháp đối với nhu cầu tiêu dùng cao hổ tại Việt Nam và hậu quả của vấn nạn này đối với quần thể hổ. Nhóm tác giả giả định rằng việc nuôi hổ và buôn bán hổ nuôi trong trường hợp thiết kế các tình huống và bảng hỏi phục vụ nghiên cứu là hợp pháp.
Các điều tra viên đã phỏng vấn trực tiếp 228 đối tượng bao gồm 182 người tiêu dùng cao hổ và 46 người có ý định tiêu dùng cao hổ. Toàn bộ các cuộc phỏng vấn được thực hiện tại Hà Nội bởi đây được xem là thị trường chính cho các bộ phận và sản phẩm của hổ, đặc biệt là cao hổ, với đối tượng được khảo sát có độ tuổi từ 23 – 81, đa số là nam giới (84%), đã kết hôn (97%), có trình độ đại học (73%) hoặc trên đại học (14%). Khoảng một phần ba (27,6%) trong số những người được hỏi là quan chức chính phủ trong khi gần một nửa (43%) là chủ doanh nghiệp hoặc kinh doanh tự do. Thu nhập trung bình của đối tượng được khảo sát khoảng 40 – 49 triệu đồng/tháng, gấp hơn 10 lần mức bình quân của cả nước (3,76 đồng triệu/tháng) năm 2018.
Kết quả cho thấy khoảng 40% sử dụng cao hổ để điều trị xương và 32% sử dụng vì lợi ích sức khỏe nói chung, một số dùng cao hổ với mục đích ngăn ngừa bệnh tật. Gần một nửa số người được hỏi (46%) thừa nhận họ hoặc các thành viên trong gia đình đã mua cao hổ trong khi 48% tuyên bố nhận cao hổ như một món quà. Đáng chú ý là 44,3% những người được hỏi tin rằng sử dụng 100g cao hổ sẽ không chịu các chế tài pháp lý. Phần lớn những người được khảo sát cũng sử dụng các loại thuốc và thực phẩm từ các loài động vật hoang dã quý hiếm khác như sừng tê giác (43%), mật gấu (89%), mật bò tót (37%), nhung hươu (45%), thịt và vảy tê tê (25,4%), vây cá mập (50%).
Đặc biệt, nghiên cứu cho thấy người tiêu dùng vẫn đặc biệt ưa thích các sản phẩm cao hổ hoang dã bất kể đó có thể là sản phẩm bất hợp pháp và có giá cao hơn các sản phẩm có nguồn gốc từ hổ nuôi hợp pháp, thậm chí họ có xu hướng chọn mua các sản phẩm cao hổ có tỷ lệ xương hổ cao. Phát hiện này cho thấy nuôi nhốt hổ không những không làm giảm áp lực đối với quần thể hổ hoang dã mà còn khuyến khích nhu cầu tiêu thụ các bộ phận từ hổ – hoàn toàn phù hợp với lời cảnh báo và kêu gọi của các nhà bảo tồn cùng chuyên gia động vật hoang dã rằng cần loại bỏ càng sớm càng tốt việc nuôi nhốt hổ.
Nuôi nhốt hổ nhằm mục đích thương mại lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc vào những năm 1980 trong nỗ lực giảm nạn săn trộm hổ hoang dã, sau đó lan dần sang các quốc gia lân cận. Các cơ sở chăn nuôi hiện có quy mô từ nhỏ (như hổ được nuôi bất hợp pháp tại các tầng hầm ở Nghệ An) cho tới các địa điểm được chính phủ cấp phép dưới chiêu bài du lịch và các trang trại nuôi nhốt hàng trăm cá thể hổ.
Theo Hoai Nam Dang Vu, nghiên cứu sinh tại Đại học Copenhagen và tác giả chính nghiên cứu, điều đáng lo ngại là những người được phỏng vấn chia sẻ thẳng thắn về sở thích tiêu dùng cao hổ vì họ cho rằng việc sở hữu cao hổ mang lại rủi ro tối thiểu ở Việt Nam. Cao hổ vốn khó xác định ADN từ cá thể hổ riêng biệt nên hiếm khi hành vi sở hữu bị khởi tố. Thay vào đó, các cơ quan chức năng thường truy quét những đối tượng bị bắt do buôn bán hổ hoặc các bộ phận từ hổ.
Cũng theo Hoai Nam Dang Vu, có rất nhiều lỗ hổng và kẽ hở trong luật pháp ở Việt Nam mà những người kinh doanh sản phẩm từ hổ có thể lợi dụng để buôn bán sản phẩm bất hợp pháp này. Đặc biệt, hồ sơ của những người mua cao hổ từ nghiên cứu sẽ rất quan trọng để thiết kế các chiến dịch thay đổi hành vi của người tiêu dùng sang các lựa chọn y học thay thế bền vững hơn. Người mua thường là trung niên, giàu có và có mối quan hệ tốt, hay mua hàng xa xỉ và thuốc cổ truyền, đồng thời có kiến thức giúp họ tránh được các rủi ro pháp lý và sự trừng phạt của pháp luật. Do vậy, các chiến dịch nên được thiết kế dựa trên những hiểu biết sâu sắc về những người mua cao hổ chứ không phải công chúng nói chung bởi vì sản phẩm này chỉ được một nhóm người tiêu dùng cụ thể săn lùng.
Theo các chuyên gia, trong khi các chiến dịch thay đổi hành vi và loại bỏ dần việc nuôi hổ là những giải pháp có thể giúp hổ hoang dã về lâu dài thì việc kiểm tra, rà soát ngay lập tức tất cả những cá thể hổ đang được nuôi nhốt là rất quan trọng. Cơ sở dữ liệu ADN và dữ liệu nhận dạng sọc vằn sẽ giúp xác định nguồn gốc của bất kỳ cá thể hổ nào bị buôn bán từ các cơ sở nuôi nhốt. Các biện pháp này đã được các nhà chức trách ở các nước cho phép nuôi hổ hứa hẹn từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa được áp dụng.
Song song với việc xây dựng cơ sở dữ liệu hổ nuôi, việc phục hồi các quần thể hổ hoang dã cũng rất quan trọng và sẽ phụ thuộc vào hành động của các quốc gia còn hổ.
Là chủ nhà của Hội nghị các bên tham gia Công ước đa dạng sinh học lần thứ 15 tại Côn Minh vào tháng 4/2022, Trung Quốc có cơ hội duy nhất để dẫn đầu trong việc loại bỏ dần việc nuôi hổ và chấm dứt buôn bán hổ, Debbie Banks, phụ trách chiến dịch chống tội phạm về hổ và động vật hoang dã thuộc EIA cho biết. Bà cũng kêu gọi các chính phủ còn hổ áp dụng các chính sách bảo vệ hổ hoang dã như Ấn Độ và Nepal – hai quốc gia đang phục hồi quần thể hổ, nơi hổ không bị đối xử như hàng hóa và thương mại hổ hoàn toàn bị cấm.
Ý Nhi (Theo Mongabay)