Những đàn ong di trú

BVR&MT – Tôi gọi họ là những con người di trú, chăm những đàn ong di trú. Họ lang thang hết những vùng hoa này đến vùng hoa khác khắp đất nước này cùng đàn ong kiếm mật. Với họ, ong là cuộc sống, là niềm vui và cả nước mắt.

Những mảnh đời di trú

Tây nguyên vừa hết mùa hoa cà phê, lang thang trên những vùng hoa cà phê thẫm đen đang đậu quả vẫn còn nhiều chú ong cần mẫn vét những gì còn sót lại của mùa hoa cà phê tháng ba trên cao nguyên trung phần này. Tháng ba tây nguyên, thời điểm này chính là lúc mà những trang trại ong và những con ong mệt mài đi thu ngon những hột phấn hoa trên những bông hoa cà phê đó. Đó chính một vụ thu hoạch mật ong ngon nhất trong 1 năm khi mùa hoa cà phê nở rộ. Những đàn ong ở đây hút mật, và những chủ đàn ong cùng nhân công cũng ở đây, họ sống và di chuyển theo đàn ong mỗi mùa hoa từ nam ra bắc và ngược lại. Chỉ cần ở đâu có hoa, ở đó có đàn ong và những người chăn ong.

Phan văn Lang (46 tuổi, quê Quảng Nam) đã ở Đăk Hà (Kon Tum) gần ba tháng. Anh mang đàn ong đi từ huế vào tây nguyên để hút mật từ tết đến giờ. Anh Lang bảo, những người nuôi ong mật như anh luôn tự nhận mình là “dân du mục”, những kể di trú theo mùa hoa luôn phải sống cuộc sống nay đây mai đó để di chuyển đàn ong đi kiếm nơi có thời tiết và nguồn phấn hoa phù hợp.

Trại ong của anh Lang giữa rừng cà phê cuối mùa hoa.

Anh bảo, quanh vùng hoa cà phê bạt ngàn này không chỉ có trại ong của anh, còn mấy chục trại ong khác cũng như anh, chạy ong từ khắp nơi về đây chăn ong mùa hoa cà phê này. Mỗi trại ong ở cách nhau vài km để tận dụng hết vùng hoa. Ong vốn là những sinh vật có trí nhớ tốt, nên chẳng bao giờ bị lạc bầy lạc tổ. thế nên đàn ong của ai chẳng bao giờ sợ bị mất. 

Trong căn lều phủ bằng bạt của anh cùng mấy người công nhân theo anh nhiều mùa, chỉ có chiếc sạp gỗ làm chỗ ngủ, quần áo rẻ tiền, vài chiếc xong nồi bất đũa nấu cơm, chiếc đài chạy pin và một bình ắc quy nho nhỏ để thắp sáng. Nhưng ánh điện từ ắc quy chỉ thắp lên lúc ăn cơm tối, rồi sau đó lại tắt. không phải vì tiết kiệm mà bởi tập tính của loài ong rất nhạy cảm với ánh sáng, không cẩn thận sẽ bị ong tấn công ngay lập tức. Tôi hỏi tại sao? Anh bảo: “Tính khí của loài ong rất khó đoán định. Lúc cáu tiết có thể kéo cả đàn tìm người đốt chẳng cần lý do. Thế nên mỗi tối, sau khi ăn cơm thì ánh điện tắt phụt.

Anh Lang bảo, giới nuôi ong gọi những túp lều này là “khách sạn ngàn sao”. Chỉ cần nhìn vào chỗ ở là biết được sự lênh đênh, cực khổ của nghề này. Cứ thế, hết tháng này qua tháng khác, hết năm này qua tháng khác, những con người ấy lang thang biền biệt, ăn ngủ trong lán trại tạm bợ giữa những cánh rừng đầy hoa. Họ sống cuộc đời du mục và không kém phần lãng mạn. nhưng vẫn có những câu chuyện buồn của đời nuôi ong di trú chẳng mấy người muốn tỏ bày.

Trong hơi sương lãng đãng lúc nửa đêm của miền cao nguyên, anh Lang gõ nhẹ vào phím cây đàn guitar bong tróc, cất giọng trầm đục bài hát quen thuộc của kẻ tha hương theo đàn ong di trú. Góc xa dưới tán cây mờ ảo ánh trăng thượng tuần, một người công nhân đang gọi điện thoại về nhà. Thi thoảng anh lại giơ chiếc điện thoại lên để hứng sóng. Nghe thoang thoáng qua câu chuyện, có lẽ anh đang gọi về dặn dò đứa con. Anh Lang thủ thỉ, nghề nuôi ong di trú này cũng có lắm vui buồn. Như người công nhân kia mấy tháng theo ong thì nhận được tin vợ ở nhà có người người đàn ông khác. Anh lặng lẽ bắt xe về, tới nhà trong đêm thì thấy người vợ mình đang ngoại tình. Anh lặng lẽ trở lui. Rồi từ ấy theo anh Lang đã gần 10 năm không về nữa. Tôi nghe câu chuyện mà chợt chạnh lòng. Hóa ra, những mảnh đời theo đàn ong di trú, cũng đâu có đơn giản như thế.

Nơi ở của những người chăn ong đơn sơ và khổ cực.

Nghề nuôi ong du mục không chỉ như “đánh bạc với trời”, quanh năm suốt tháng phải sống giữa núi rừng hoang vu, những người theo nghề này còn nếm trải sự cô đơn, thiếu thốn, khi mà quanh năm họ chỉ có rừng núi hoang vu làm bạn. Hành trang của những người nuôi ong là hàng trăm, hàng ngàn thùng ong cùng những lều bạt đơn sơ. Có những gia đình theo ong xuôi ngược khắp nơi, những đứa trẻ mới chập chững bước đi nhưng đã rong ruổi cùng cha mẹ qua các cánh rừng. Những người nuôi ong ấy, có lẽ thời gian sống trong rừng của họ còn nhiều hơn thời gian ở nhà.

Nước mắt của bầy ong

Để có mật ngon, người nuôi ong phải rong ruổi hầu khắp các tỉnh từ Nam ra Bắc. Nghề này được ví như “đánh bài lật ngửa” bởi may mắn thì trúng hàng trăm triệu còn không thì lỗ nặng. Anh Lang bảo anh thất bại nhiều vụ, do những ngày đầu anh vẫn chưa am hiểu hết nghề nuôi, những năm sau đàn ong của anh liên tiếp bị dịch bệnh chết rạp. Những thất bại liên tiếp đã làm anh chán nản bỏ nghề. Nhưng những ngày tháng phiêu bạt làm đủ thứ nghề vẫn không khoả lấp được nỗi nhớ với nghề nuôi ong trong anh. Rồi anh quay lại. “Nuôi ong rong ruổi khắp nơi, nghề này dễ trúng và cũng dễ lỗ do chi phí bỏ ra tiền tỷ. Nhưng chúng quen rồi, phải theo nghề thôi!”, anh Lang thủ thỉ.

Người chăn ong di trú chỉ mong gặt hái được thành quả, đừng có rủi ro gì.

Không chỉ sợ bệnh tật cho ong, mà ngay cả việc chọn vùng hoa cho đàn ong cũng là cả một cuộc chiến. Đó là cuộc chiến của các chủ trại ong, là cuộc chiến của chủ ong và cả người dân bản địa tại vùng hoa đó. Tâm lý người dân địa phương thường cho rằng ong là kẻ thù chính trong phá hoại hoa màu, cây cối nên họ phun thuốc làm một số lượng lớn ong bị chết. Nuôi ong mật nhìn vậy nhưng không dễ, vốn đầu tư không nhỏ cùng với bao nhiêu rủi ro khác nữa. Di chuyển đàn ong về nơi nào, nếu không đi “trinh sát” trước, đặt ong xuống vùng người dân mới phun thuốc sâu, thì chỉ 3 ngày là bầy ong chết sạch.

Cuộc sống vất vả đến mấy rồi cũng thích nghi được. Điều khiến người nuôi ong di trú sợ nhất là việc chủ đất có vùng hoa bỗng dưng xua đuổi vì phật ý. Mỗi lần bị đuổi là mỗi lần người nuôi ong lãnh đủ, vì chi phí cho mỗi chuyến chuyển ong là cả một vấn đề. Điều đáng sợ nữa, ấy là lúc thu hoạch mật, bất chợt có các nhóm giang hồ, anh chị đang hoạt động, bắt mùi được và tìm đến hoạnh hoẹ trấn lột. Chăn ong mấy tháng trời, đến lúc gặt hái thành quả thì không thể làm khác được nên những chủ ong đành phải cúng tiền chè thuốc cho những người này, chỉ mong được yên ổn làm ăn nốt mấy ngày cuối rồi đi nơi khác, nếu không chỉ cần vài mồi lửa và đám khói coi như công cốc.

Ong gắn với họ không chỉ là cái nghiệp kiếm cơm, mà ở đó còn có những câu chuyện, những cảnh đời đầy thương cảm đi theo mùa di trú.

Nhắc đến những câu chuyện thảm thê của nghề nuôi ong du mục, anh Lang nghẹn ngào kể bạn nghề của anh ngày trước thiệt hại mấy trăm triệu vì ong dạt đàn. Hôm ấy trời nổi gió bất thường, có rất nhiều con ong của đàn khác bay ra khỏi thùng gỗ để bài tiết, gặp gió thổi mạnh chúng kéo nhau bay đi. Thế là cả trại ong mấy trăm thùng trong vườn bỗng dưng bốc bay. Nhìn hàng vạn con ong bỏ đàn bay đen kịt bầu trời chiều, người nuôi ong chỉ biết đuổi theo gào thét mà rơi nước mắt. Nhưng mọi cố gắng đều vô vọng. Hàng trăm thùng ong đầu tư cả trăm triệu chỉ còn sót lại ong chúa, lưa thưa vài ong thợ cùng nhung nhúc nhộng và trứng. Nhiều người an ủi động viên, nhưng bạn nghề từ ngày ấy đã không gượng nổi đành bỏ nghề, mặc dù đó là người rất mát tay trong việc chăn ong.

Rủi ro đầy rẫy, gian nan trùng trùng, thế nhưng khi tôi hỏi anh Lang năm sau có đưa ong mật lên cao nguyên nữa không? Anh vẫn nở nụ cười hi vọng: “Có chứ, đã làm ăn thì chuyện được mất là thường tình. Nghề đã vận vào người sao bỏ được?”.

Một ngày với những người chăn ong di trú, tôi vẫn chưa hiểu hết được trong cái nghề nuôi ong này còn có những nỗi buồn mà họ không muốn nhắc tới. Với họ, nghề cũng như cuộc sống của chính bản thân vậy, ong gắn với họ không chỉ là cái nghiệp kiếm cơm, mà ở đó còn có những câu chuyện, những cảnh đời đầy thương cảm đi theo mùa di trú.

Tiêu Dao – Minh Ngọc