Nhiệt điện than và an ninh năng lượng quốc gia

BVR&MT – Các chuyên gia đều cho rằng, nhiệt điện than có vai trò quan trọng trong hệ thống điện Việt Nam. Tuy nhiên, các nhà máy nhiệt điện than cần sử dụng công nghệ tiên tiến, đáp ứng tốt các chỉ số môi trường theo quy định.

Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1, sau hơn 1 năm vận hành đã cung cấp trên 6 tỷ kWh, góp phần đáp ứng nhu cầu điện năng quốc gia, nhất là khu vực phía Nam

Nhiệt điện than chiếm tỉ trọng ngày càng lớn

Hiện nay, các nước đang phát triển như Việt Nam có nhu cầu sử dụng điện năng rất lớn và tăng nhanh hằng năm.

Tại hội thảo công nghệ nhiệt điện than và môi trường do Bộ Công Thương tổ chức ngày 3/3 tại TPHCM, ông Phương Hoàng Kim, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết, trong giai đoạn 2016-2030, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7%/năm, tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026-2030 lần lượt là 10,6%, 8,5% và 7,5%. Theo dự báo, nhu cầu điện thương phẩm các năm 2020, 2025, 2030 tương ứng là 235 tỷ kWh, 352 tỷ kWh là 506 tỷ kWh.

Trong khi đó, về tiềm năng năng lượng sơ cấp trong nước cho sản xuất điện, thủy điện vừa và lớn cơ bản đã khai thác hết, tổng công suất đưa vào cân đối khoảng 20.000 MW, điện sản xuất trên 70 tỷ kWh.

Bên cạnh đó, các nguồn năng lượng khác tương đối hạn chế. Tổng công suất nhiệt điện khí (dùng khí đốt trong nước) đưa vào cân đối trong dài hạn chỉ dừng ở mức trên 12.000 MW với sản lượng điện khoảng 63 tỷ kWh. Các nguồn năng lượng tái tạo gồm: Thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối đạt khoảng hơn 27.000 MW với tỉ trọng 21% vào năm 2030.

Chính vì vậy, nhiệt điện than đóng vai trò quan trong việc bảo đảm an ninh năng lượng.

Theo quy hoạch, dự kiến đến năm 2020, tổng công suất nhiệt điện than khoảng 26.000 MW, chiếm hơn 49% điện sản xuất. Năm 2025 đạt khoảng 47.600 MW, chiếm 55% điện sản xuất. Năm 2030 đạt khoảng hơn 55.000 MW, chiếm tỉ trọng hơn 53%.

Để bảo đảm theo quy hoạch, dự kiến tổng nguồn than trong nước cho điện có thể đưa vào cân đối trong dài hạn khoảng 45-50 triệu tấn, đủ cấp cho khoảng 15.000 MW với sản lượng điện trên dưới 88 tỷ kWh, trong khi đó, lượng than nhập vào khoảng 85 triệu tấn vào năm 2030…

GS.TS. Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam cho biết, nhiệt điện than là nguồn sản xuất điện năng chủ yếu của thế giới. Nhiều nghiên cứu, đánh giá cho thấy, trữ lượng than còn đủ dùng cho nhân loại khoảng 300 năm nữa, vì thế hầu hết các quốc gia sau khi khai thác hết tiềm năng thủy điện đã chuyển sang phát triển nhiệt điện, chỉ các nước giàu có mới phát triển điện hạt nhân.

Phát triển nhiệt điện than đang được nhiều nước đẩy mạnh, bởi nhiệt điện than có giá thành thấp, chỉ sau thủy điện, vốn đầu tư huy động không quá cao, khả năng huy động công suất lớn, xây dựng nhà máy không quá phụ thuộc vào địa điểm như thủy điện và thời gian xây dựng không quá lâu, chỉ khoảng 3 năm.

Tuy nhiên, theo ông Nghĩa, nhiệt điện than cũng còn nhiều nhược điểm như nguồn phát thải lớn các chất thải ra môi trường, đặc biệt chất thải rắn và khí; chi phí về đầu tư, vận hành và bảo dưỡng hệ thống xử lý môi trường tốn kém…

Phát triển nhiệt điện nhưng phải bảo đảm môi trường

Tại Việt Nam, nhiều chuyên gia trong ngành cho rằng, phát triển nhiệt điện than vẫn là giải pháp, xu hướng tất yếu, ít nhất là trong vài chục năm tới. Vấn đề đặt ra là cần sử dụng các công nghệ tối ưu, tăng hiệu suất vận hành tổ máy, xử lý hiệu quả các chất thải, làm tốt công tác quản lý, giám sát, bảo vệ môi trường.

Theo GS.TS. Trương Duy Nghĩa, để giảm thiểu tác động đến môi trường, các nhà máy nhiệt điện than cần phải sử dụng các biện pháp khử các chất độc hại trước khi thải ra môi trường, các phương pháp xử lý chất thải phải áp dụng công nghệ hiện đại và các nhà máy nhiệt điện cần phải tổ chức quan trắc thường xuyên để đánh giá kết quả xử lý.

Đại diện của Công ty MHPS Nhật Bản và Tập đoàn KEPCO Hàn Quốc, những doanh nghiệp lớn trong ngành, đều cho rằng, phát triển nhiệt điện than là xu hướng tất yếu tại Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp này hiện đang tư vấn và cung cấp các thiết bị hiện đại nhằm đáp ứng các chỉ tiêu về môi trường cho nhiều dự án nhà máy nhiệt điện than tại Việt Nam.

Chia sẻ tại hội thảo, bà Lê Thị Ngọc Quỳnh, Phó trưởng Ban Khoa học công nghệ và môi trường thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, hiện nay, các nhà máy nhiệt điện do EVN quản lý đều đạt các chỉ tiêu về môi trường.

Để minh bạch các thông tin về môi trường, vấn đề xử lý tro xỉ tại các nhà máy nhiệt điện thuộc Tập đoàn cũng đang được các nhà máy thực hiện theo hướng kiểm soát chặt chẽ khả năng phát tán bụi từ bãi thải xỉ ra môi trường; lắp đặt các hệ thống camera giám sát bãi xỉ đã hoạt động ổn định; bảo đảm truyền liên tục hình ảnh và dữ liệu hình ảnh về phòng điều khiển trung tâm và Sở TN&MT các tỉnh, thành phố nơi nhà máy hoạt động.

Đối với các nhà máy nhiệt điện cũ, hiện nay, EVN đang đẩy mạnh triển khai dự án cải tạo nâng cấp hệ thống xử lý khí thải.