Nghiên cứu cho thấy nông lâm kết hợp lưu trữ ít carbon hơn tái trồng rừng nhưng có nhiều lợi ích khác

BVR&MT – Một nghiên cứu gần đây được đăng trên Tạp chí Ecological Solutions and Evidence phát hiện ra rằng một dự án tái trồng rừng và nông lâm kết hợp trên đất của người bản địa ở Panama tuy không đạt được mục tiêu cô lập carbon nhưng mang lại kết quả tốt hơn mức trung bình cùng nhiều lợi ích khác. Một trong những mục tiêu carbon không đạt được là do hỏa hoạn xảy ra tại các khu rừng.

Nghiên cứu cũng minh chứng trồng cây có khả năng lưu trữ carbon cao hơn nhưng nông lâm kết hợp mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương về mặt thu nhập tăng thêm và an ninh lương thực.

Nghiên cứu đánh giá 10 năm trong tổng số 14 năm của dự án carbon tại Panama do cộng đồng người bản địa Emberá điều hành. Đây là cộng đồng cùng sở hữu đất đai và đã thử nhiều phương pháp khác nhau để lưu trữ carbon bằng cách quản lý rừng nhiệt đới, bao gồm trồng hỗn hợp các loài cây bản địa, trồng độc canh một loại cây và nông lâm kết hợp với việc trồng thực phẩm hoặc các loại cây trồng khác kết hợp cây bụi và cây lâu năm có ích.

Ariosto Guainora, một trong những điều phối viên dự án tái trồng rừng tại địa phương cho biết: “Đối với chúng tôi, những người quản lý đất đai, điều quan trọng là phải tái trồng rừng vì phúc lợi của cộng đồng và có tín chỉ carbon mà chúng tôi có thể giao dịch và tăng thêm thu nhập, vì phúc lợi của gia đình chúng tôi”.

Dự án carbon bắt đầu vào năm 2008 khi Viện nghiên cứu nhiệt đới Smithsonian (STRI) khởi xướng nghiên cứu với cộng đồng Emberá. Trong ba năm nữa, Viện sẽ ký hợp đồng với cộng đồng để lưu trữ 3.400 tấn carbon, với giả định rằng 80% cây sẽ sống sót. Nhưng nghiên cứu phát hiện ra rằng dự án chỉ cô lập được khoảng một nửa lượng carbon dự kiến: 23% lô đất còn lại đang hoạt động kém hiệu quả trong khi 46% mục tiêu chung đã không đạt được tính đến nay. Mặc dù kết quả này nghe có vẻ thấp nhưng vẫn tốt hơn mức trung bình của dự án bù đắp carbon.

Thành viên cộng đồng Emberá Lidia Barrigón thảo luận về dự án với sinh viên Đại học McGill. Hình ảnh: Viện nghiên cứu nhiệt đới Smithsonian (STRI)

“Tôi sẽ gọi đó là khoảnh khắc nhìn nửa cốc nước đầy, với rất nhiều bài học kinh nghiệm,” giám đốc STRI Joshua Tewksbury cho biết. “Điều này chứng minh rằng có sự đánh đổi trong cách chúng ta đánh giá các mục đích sử dụng cảnh quan khác nhau. Có lẽ nó cho chúng ta biết nhiều hơn về cách chúng ta có thể tiếp cận các dự án tái trồng rừng quy mô lớn.”

Tewksbury nhấn mạnh dự án được thiết kế cụ thể như một dự án thí điểm, trong đó mọi người có thể “được phép thất bại” trong việc đạt được các mục tiêu về carbon.

Chuyên gia về lâm nghiệp tại Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế và Nông lâm Thế giới, Valentina Robiglio, người không liên quan đến nghiên cứu và dự án này cho biết kết quả không có gì đáng ngạc nhiên, đồng thời nói thêm rằng dự án đã không ước tính đầy đủ lượng carbon lưu trữ “khi xem xét tất cả các yếu tố khác nhau”. Đây là một vấn đề phổ biến trên thị trường lưu trữ carbon mới ra đời.

Nhìn chung, nghiên cứu phát hiện ra rằng việc trồng gỗ, dù là hỗn hợp hay đơn loài, đều có tiềm năng lưu trữ carbon tốt nhất, nhưng ngay cả khả năng đó cũng bị ảnh hưởng bởi cháy rừng, một vấn đề ngày càng trầm trọng hơn trong thời đại biến đổi khí hậu.

Katia Forgues, tác giả chính của báo cáo cho biết “lý do chính khiến các mục tiêu về carbon không đạt được là tác động của hỏa hoạn”.

Cà phê trồng dưới bóng râm. Hình ảnh: World Agroforestry/CIFOR-ICRAF

Đốt cháy cacbon

Trong số 20 thành viên tham gia dự án, ba người đã chuyển đổi mảnh đất trồng rừng sang mục đích sử dụng khác, trong đó, hai trong số ba lô đất bị ảnh hưởng nặng bởi hỏa hoạn, gần như bị cháy hoàn toàn.

“Hỏa hoạn liên quan mật thiết đến tập quán canh tác đốt nương làm rẫy của người Emberá, nhưng trong nhiều trường hợp, nó lan ra ngoài ranh giới và ảnh hưởng đến các lô đất trồng rừng gần đó”, Forgues cho biết. “Điều này cản trở đáng kể sự sống còn và phát triển của cây, làm giảm khả năng lưu trữ carbon của chúng. Hai trong số ba lô đất đã trải qua các mức độ thiệt hại do hỏa hoạn khác nhau trong suốt 14 năm nghiên cứu”.

Mặc dù cộng đồng sử dụng các rào chắn lửa nhưng vẫn không ngăn được đám cháy lan rộng. Và dù STRI đã cung cấp kinh phí cho phòng cháy chữa cháy, chi trả cho việc xây dựng rào chắn lửa cũng như dọn cỏ dại, tưới tiêu mùa khô nhưng thiệt hại do hỏa hoạn vẫn khá đáng kể. Ban đầu, kinh phí hỗ trợ từ STRI chỉ bao gồm 7 năm đầu tiên của dự án. Về sau, cộng đồng đã đàm phán lại các hợp đồng để có thêm kinh phí phòng cháy chữa cháy.

“Rủi ro cháy nổ vượt ra ngoài ranh giới dự án khiến việc phối hợp giữa các bên (người dân, chính quyền địa phương, cộng đồng lân cận) trở nên cần thiết”, Forgues nhấn mạnh.

Theo Robiglio, những cách khác để kiểm soát cháy tốt hơn là trồng các loài cây thích nghi với lửa và xây dựng các rào cản bằng các loài “có thể duy trì độ ẩm”. Bà cho biết hệ thống “khảm” có thể giúp giảm thiểu cháy rừng.

Gỗ lưu trữ carbon nhiều hơn nông lâm kết hợp

Trong 10 năm đầu tiên, các đồn điền gỗ lưu trữ lượng carbon nhiều gấp ba lần so với các lô đất nông lâm kết hợp. Forgues cho biết ước tính ban đầu về khả năng cô lập carbon cho rằng cộng đồng sẽ thực hành nông lâm kết hợp tương tự như các hoạt động nông lâm kết hợp truyền thống của Emberá, vốn phụ thuộc vào các loại cây ăn quả lớn. “Tuy nhiên, trên thực tế, những người tham gia đã lựa chọn phương pháp nông lâm kết hợp trồng cà phê, bao gồm tỷ lệ cao cây cà phê tầng dưới (43%) được che bóng bởi cây ăn quả và cây lấy gỗ cao hơn, ưu tiên tiềm năng tạo ra thu nhập của cà phê”, Forgues cho biết. Sự vượt trội của những bụi cà phê nhỏ hơn so với cây ăn quả lớn hơn “dẫn đến lượng carbon lưu trữ ít hơn 40% so với canh tác nông lâm kết hợp truyền thống”.

Forgues và cộng sự không ngạc nhiên khi những người tham gia thích nông lâm kết hợp vì nó cung cấp thêm thu nhập. Những người tham gia cũng nói với các nhà nghiên cứu rằng nông lâm kết hợp cho phép họ xem những cây còn sống là vĩnh viễn thay vì cho rằng chúng sẽ bị chặt một ngày nào đó, chẳng hạn như những cây trồng hỗn hợp bản địa hoặc độc canh.

Theo quan điểm của cộng đồng, nông lâm kết hợp rất quan trọng vì nó cải thiện chất lượng đất và bổ sung nguồn cung cấp thực phẩm tại địa phương. Ngoài cà phê, người còn trồng ngô, lúa và chuối.

Robiglio cho biết nông lâm kết hợp cũng có tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học và phục hồi đất, nếu được thực hiện tốt.

Achiote (điều màu) được trồng trong hệ thống nông lâm kết hợp. Hình ảnh: Ocean Malandra/Mongabay.

Tiến về phía trước

Một nghiên cứu khác đăng trên Tạp chí Nature Communications cho thấy chỉ 16% sản phẩm tín chỉ carbon được nghiên cứu thực sự đạt được mục tiêu giảm phát thải thực sự – điều này không chỉ nêu bật tâm lý ăn xổi và tình trạng tham nhũng trong một số dự án dạng này mà còn cho thấy rõ sự phức tạp của việc cố gắng lưu trữ carbon trong các hệ sinh thái tự nhiên trên một hành tinh có hơn 8 tỷ người đang nóng lên nhanh chóng.

Dự án Emberá ở Panama đã cố gắng lưu trữ thêm carbon nhưng không nhiều như tính toán ban đầu, và không có điều gì trong số đó xảy ra nếu không có khoản thanh toán từ STRI.

“Dự án tái trồng rừng cung cấp cho những người tham gia một nguồn thu nhập mới, nơi họ được trả tiền để trồng rừng, thay vì chặt phá hoặc cho thuê. Mọi người rất tự hào về những lô đất tái trồng rừng của mình và coi đó là di sản cho con cháu”, Forgues cho biết. Ở một khía cạnh nào đó thì đây cũng được coi là thành công của dự án bởi nếu chỉ xét riêng về carbon, chương trình cho đến nay chỉ tạo ra khoảng một nửa lợi ích mong đợi. Dự án cũng đã thành công theo những cách khác với kết quả cho thấy có “hai thiết kế có thể có cho nông lâm kết hợp”. Trong đó, một thiết kế tập trung vào các lô đất truyền thống, đa dạng, giàu các loài trái cây, cung cấp an ninh lương thực và lưu trữ carbon cao hơn, và một thiết kế được những người tham gia ưa chuộng, nhấn mạnh vào việc sản xuất cà phê như một loại cây trồng tạo ra thu nhập. Không có thiết kế nào vượt trội hơn, nhưng cả hai đều có kết quả khác nhau, Forgues chia sẻ.

Phỏng vấn người tham gia dự án tái trồng rừng. Hình ảnh: Catalina Gomez

Dự án STRI sẽ kéo dài đến năm 2035, nhưng cộng đồng cũng đã bắt đầu dự án tái trồng rừng thứ hai thông qua Đại học McGill. Tewksbury cho biết tổ chức của ông quan tâm đến việc đầu tư thêm nhưng điều này sẽ phụ thuộc vào đặc quyền của các nhà nghiên cứu STRI.

Guainora cho biết: “Tương lai của dự án này là duy trì việc bảo tồn rừng, giảm cháy rừng, trồng thêm cây và đồng thời giúp chúng tôi về mặt kinh tế”.

Mặc dù là một dự án nghiên cứu nhỏ, những phát hiện này có thể được áp dụng cho các nỗ lực tái trồng rừng trên quy mô lớn, vốn đang ngày càng bị chỉ trích.

Tewksbury cho biết điều quan trọng đối với các nhà đầu tư là nhận ra rằng họ thường thiếu kiến ​​thức địa phương. Ông lưu ý rằng hầu hết các nhóm có đủ nguồn tài trợ cho việc tái trồng rừng quy mô lớn không phải đến từ vùng nhiệt đới mà là ở thế giới phương Tây.

Ca cao trồng dưới bóng râm. Hình ảnh của Erik Hoffner cho Mongabay.

“Có một sự căng thẳng tự nhiên ở đây, rằng những người biết cách làm tốt nhất thì không có quyền tiếp cận vốn, và những người có quyền tiếp cận vốn thì không biết bối cảnh địa phương. Và đó không phải là vấn đề mới”, ông nói, đồng thời nói thêm rằng các nhà đầu tư có thể “tham gia với ý định tốt nhất”, nhưng thành công của họ phụ thuộc vào “khả năng hợp tác chặt chẽ với cộng đồng địa phương”.

Các dự án tái trồng rừng, giống như nhiều khoản đầu tư khác, cũng đi kèm với rủi ro, đặc biệt là cháy rừng. Và không giống như một số khoản đầu tư khác, chúng đòi hỏi thời gian dài để đạt được thành công.

Theo Tewksbury, một cách để làm việc tốt hơn với người dân địa phương là thiết lập các dự án tái trồng rừng cho phép thu hoạch có chọn lọc trong khung thời gian đã thỏa thuận.

MP (Theo Mongabay)