BVR&MT – Để phát triển đồng bộ hoạt động KH&CN, trách nhiệm của các Sở KH&CN là phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn để có những tham mưu, tư vấn đúng và trúng các vấn đề cốt lõi trong phát triển KH&CN gắn với địa phương mình.
Ngày 27/7, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với UBND tỉnh Tiền Giang tổ chức Hội nghị Giao ban Khoa học và Công nghệ vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Báo cáo đánh giá kết quả hoạt động KH&CN các tỉnh/thành phố vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2018 và định hướng hoạt động KH&CN giai đoạn tới, ông Chu Thúc Đạt, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển KH&CN địa phương cho biết, trong giai đoạn 2016-2018, Bộ KH&CN đã hỗ trợ các địa phương trong vùng triển khai 91 nhiệm vụ KH&CN với tổng kinh phí hơn 1.177 tỷ đồng.
Với ưu thế nguồn kinh phí lớn, nội dung có hàm lượng khoa học cao, quy mô lớn, chất lượng nội dung triển khai của các đề tài, dự án đáp ứng đầy đủ các tiêu chí lựa chọn, giải quyết các vấn đề mà khả năng nhân lực cũng như nguồn tài chính của địa phương không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Các nhiệm vụ phần lớn đều tập trung vào thúc đẩy phát triển các sản phẩm chủ lực của Quốc gia, vùng và của địa phương theo chuỗi giá trị như: Chuỗi giá trị cá tra, chuỗi giá trị tôm, chuỗi giá trị cây dừa, chuỗi giá trị cây ăn trái…
Các công nghệ tạo ra đã có động rất mạnh mẽ, lan tỏa trong sản xuất, thu hút nhiều doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Việt-Úc, Tập đoàn Sao Mai, Tập đoàn Lộc trời, Công ty Lương Quới, Công ty Tôm King, Tổng công ty Việt Nam Food… cùng tham gia trong các chuỗi giá trị của các sản phẩm nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH của các địa phương. Ngoài ra, còn ưu tiên triển khai nhiều nhiệm vụ liên quan đến biến đổi khí hậu, bước đầu đang tập trung vào các tỉnh ven biển, các tỉnh có nguy cơ cao bị ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu như: Hạn mặn, xói lở bờ sông, bờ biển…
Đặc biệt, các Sở KH&CN địa phương đã hỗ trợ đăng ký bảo hộ và phát triển nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc thù của Vùng như: gạo một bụi U Minh Thượng, hồ tiêu Hà Tiên, xoài Cát Chu, Cao Lãnh, sầu riêng Cai Lậy, sả Tân Phú Đông, bưởi da xanh Bến Tre, dừa xiêm xanh Bến Tre, khô mực Sông Đốc – Cà Mau, khô cá thòi lòi Đất Mũi – Cà Mau.
Ông Chu Thúc Đạt khẳng định, các nhiệm vụ KH&CN tại địa phương đã từng bước được đổi mới từ khâu đề xuất, xác định nhiệm vụ, thẩm định nội dung, thuyết minh chi tiết đến nghiệm thu, ứng dụng kết quả nghiên cứu sau nghiệm thu phục vụ sản xuất và đời sống. Có một số địa phương đã hình thành được các Chương trình KH&CN theo lĩnh vực để có sự ưu tiên trong đầu tư, tập trung thúc đẩy phát triển các sản phẩm chủ lực (lúa chất lượng cao, tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cây ăn quả có múi, xoài cát Hòa lộc…) của địa phương theo chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất như các tỉnh: Cần Thơ, Tiền Giang, Bến Tre…
Các ý kiến từ Sở KH&CN các địa phương cũng chỉ rõ những khó khăn, thách thức trong phát triển KH&CN ở ĐBSCL. Cụ thể: phần lớn kết quả nghiên cứu KH&CN đã được chuyển giao ứng dụng nhưng vấn đề thương mại hóa chưa cao; khả năng nhân rộng của các đơn vị tiếp nhận kết quả nghiên cứu còn nhiều hạn chế…
Các mô hình ứng dụng KH&CN vào sản xuất đạt hiệu quả, tuy nhiên do vốn đầu tư mô hình còn hạn chế, việc đầu tư còn phân tán, quy mô nhỏ nên chưa tạo sự chuyển biến lớn trong sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa. Diện tích đất sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ nên khó thực hiện công tác liên kết trong sản xuất, không đảm bảo trong khâu cung cấp sản phẩm.
Bên cạnh đó, nguồn tài chính cho hoạt động KH&CN ở địa phương còn hạn hẹp. Công tác xã hội hóa các hoạt động KH&CN đặc biệt là huy động nguồn vốn đầu tư cho KH&CN vẫn còn hạn chế do chưa có quy định về hợp tác công tư trên lĩnh vực KH&CN. Doanh nghiệp đã bước đầu quan tâm đầu tư, nghiên cứu KH&CN nhưng vẫn chưa tương xứng.
Tại Hội nghị, đại diện các Sở KH&CN trong vùng đã nêu lên nhiều kiến nghị đề xuất với Bộ KH&CN, tập trung vào các vấn đề như: sớm ban hành Quyết định phê duyệt định mức kinh tế – kỹ thuật đối với các dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực KH&CN để các tổ chức KH&CN công lập căn cứ vào đó thực hiện. Cần có đề án cấp kinh phí hỗ trợ lần đầu cho Quỹ Phát triển KH&CN của tỉnh đi vào hoạt động đồng thời ban hành cơ chế, chính sách về hợp tác công tư trong lĩnh vực KH&CN. Bên cạnh đó, cần có hướng dẫn các địa phương xác định và cải thiện Chỉ số Đổi mới sáng tạo tại địa phương theo quy định tại Nghị quyết số 19/2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 của Chính phủ. Cùng với đó là ban hành các văn bản hướng dẫn phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, nhất là các định mức, cơ chế hỗ trợ cụ thể để địa phương áp dụng thực hiện.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh lưu ý, để phát triển đồng bộ hoạt động KH&CN, trách nhiệm của các Sở KH&CN là phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn để có những tham mưu, tư vấn đúng và trúng các vấn đề cốt lõi trong phát triển KH&CN gắn với địa phương mình.
Liên quan đến vấn đề đổi mới sáng tạo, Bộ trưởng cho biết, nếu như trước đây đối tượng tập trung chủ yếu là Viện nghiên cứu, Trường đại học, và các Sở KH&CN, giờ có sự xoay trục sang doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo, các Viện, Trường, Sở KH&CN cùng đồng hành giúp doanh nghiệp nâng cao tiềm lực, tạo nên sự liên ngành trong phát triển KH&CN.