Kẽ hở luật pháp từ các trang trại động vật hoang dã

BVR&MT – Khu vực tiểu vùng Mê Công sở hữu mức độ đa dạng sinh học rất cao – nhân tố từ xa xưa đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày và văn hóa truyền thống địa phương. Người dân ở vùng này đã nuôi động vật làm thú cưng cũng như săn bắt làm thuốc, thức ăn hoặc để trang trí. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, kinh tế ngày càng phát triển thúc đẩy nhu cầu về các sản phẩm động vật hoang dã đang ngày càng tăng.

Cầu tăng dẫn đến tình trạng buôn bán động vật bất hợp pháp, đe dọa nghiêm trọng đến sự sống còn của nhiều loài nguy cấp trong khu vực.

Trong số các động vật đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng gia tăng thù rùa đứng đầu bảng. Loài này suy giảm nhanh đến mức các nhà bảo tồn gọi tình trạng này là “Cuộc khủng hoảng rùa Châu Á” (17/25 loài rùa nguy cấp nhất sống ở châu Á). Nhu cầu tăng cao đối với các sản phẩm từ rùa để làm trang sức và sử dụng y học cổ truyền trên khắp Trung Quốc – quốc gia tiêu thụ rùa lớn nhất thế giới – gây ra nạn buôn bán rùa tràn lan. Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng, kéo theo sự gia tăng của tầng lớp trung lưu, khiến việc tiêu thụ rùa ngày càng không bền vững.

Rùa gopher.

Do gần gũi về địa lý và có hệ động vật rùa phong phú, các quốc gia trong khu vực Mê Công đóng vai trò quan trọng là nhà cung cấp cho Trung Quốc. Tuy nhiên, nhu cầu về rùa và sự phát triển của thương mại địa phương ở khu vực Mê Công cũng đến từ thị trường nội địa Việt Nam đang phát triển. Những nỗ lực ở cấp độ quốc gia được triển khai trên khắp khu vực để bảo tồn rùa nhưng luật pháp trong nước mâu thuẫn với luật chống buôn lậu quốc tế tiếp tục tạo điều kiện cho buôn bán rùa bất hợp pháp.

Kẽ hở từ người nuôi

Để chống lại sự khai thác quá mức và sự suy giảm nhanh chóng của quần thể rùa ở khu vực sông Mê Công, Báo cáo của đại học Duke tìm hiểu một nhân tố cụ thể thúc đẩy thương mại rùa bất hợp pháp và vạch ra các can thiệp tiềm năng nhằm giảm hoạt động này đặc biệt là ở Việt Nam và Lào – kẽ hở từ người nuôi.

Đó là tình huống các trang trại nuôi động vật hoang dã thay thế hoặc bổ sung các loài được nuôi bằng động vật hoang dã. Mặc dù luật pháp ở Việt Nam, Lào và Campuchia không cho phép săn bắn và buôn bán các loài quý hiếm và nguy cấp, nhưng chỉ áp dụng cho những loài bị bắt trong tự nhiên chứ không áp dụng cho các loài được nuôi trong các trang trại thương mại. Do đó, người nuôi có thể bán các loài bắt từ tự nhiên sau khi tẩy sạch nguồn gốc bằng cách tuyên bố bất hợp pháp rằng những cá thể đó được nhân giống thương mại trong các trang trại.

Các cơ cấu quản trị và luật định gây khó khăn cho việc loại bỏ kẽ hở. Quy trình đăng ký chăn nuôi động vật hoang dã thương mại phức tạp và chủ trang trại phải liên hệ với rất nhiều tầng nấc đã góp phần vào sự tồn tại của kẽ hở ở Việt Nam, Lào và Campuchia.

Ở Việt Nam, tồn tại một hệ thống phức tạp, nơi các chủ trang trại phải được sự chấp thuận của cả Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT) và Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) và tuân theo hai thủ tục khác nhau. Sở hữu giấy phép từ hai cơ quan khác nhau chất thêm gánh nặng pháp lý lên các công tố viên – những người phải xử lý các vụ kiện những người vi phạm theo các tiêu chuẩn của hai cơ quan này.

Hơn nữa, sự chồng chéo giữa luật và nghị định ở Việt Nam khiến các cơ quan thực thi không hành động, khiến thủ phạm dễ dàng lách luật hơn. Sự phức tạp trong việc xin giấy phép có thể khiến các chủ trang trại có thiện chí không nhận thức được các yêu cầu, bỏ qua quy trình rườm rà và tham gia vào việc nuôi bất hợp pháp.

Bên cạnh đó, việc phân cấp không hoàn chỉnh và tình trạng chính quyền chồng chéo ở cấp địa phương tại Việt Nam và Lào cũng làm tăng cơ hội tham nhũng trong buôn bán động vật hoang dã. Giấy phép giả và can thiệp số liệu quần thể động vật là phổ biến ở cả hai quốc gia.

Một trở ngại khác để loại bỏ kẽ hở từ người nuôi là lực lượng kiểm lâm và viên chức nhà nước thiếu kiến thức sinh học. Ở cả Việt Nam và Lào, tình trạng nhầm lẫn về loại động vật nào có thể được nhân giống, buôn bán, vận chuyển và xuất khẩu hợp pháp là khá phổ biến. Ngay cả khi lực lượng thực thi thống nhất về những loài nào được bảo vệ, các viên chức hạn chế về kiến thức sinh học và công nghệ có thể không thể phân biệt được ở thực địa động vật hoang dã và động vật nuôi trong và đánh giá xem các loài bị bắt thuộc nhóm quý hiếm hay bị đe dọa hay không.

Cuối cùng, do người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, kể cả người nuôi động vật hoang dã, lại càng khuyến khích các trang trại nuôi tham gia vào việc buôn bán trái phép động vật hoang dã.

Khuyến nghị

Báo cáo đề xuất ba can thiệp chủ yếu:

1. Can thiệp thay đổi hành vi nhằm vào người tiêu dùng các sản phẩm động vật quý hiếm để giảm nhu cầu tại Việt Nam;

2. Can thiệp để cải thiện việc thực thi bằng cách hoàn thành mã vạch DNA cho các loài rùa Đông Nam Á cũng như đào tạo các cán bộ thực thi và công tố viên về nhận dạng chính xác rùa bằng cách sử dụng một giáo án rõ ràng, được cấu trúc hợp lý với mục tiêu học tập có thể xác định được;

3. Can thiệp vào chăn nuôi bền vững, đào tạo người nuôi về sinh sản và trách nhiệm pháp lý phù hợp, cho phép bán một số động vật hoang dã để bổ sung thu nhập.

Trước tiên, để giải quyết nhu cầu rất cao về rùa, nhóm nghiên cứu đề xuất một biện pháp can thiệp thay đổi hành vi để nâng cao nhận thức của các chủ nhà hàng, chủ cửa hàng và người tiêu dùng nói chung về sự bất hợp pháp của buôn bán rùa. Bằng cách giải thích về hậu quả của việc tiêu diệt quần thể rùa bản địa và tác động tiêu cực đến di sản văn hóa Việt Nam, can thiệp này nhằm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm rùa. Lý thuyết về sự thay đổi của can thiệp này là giảm nhu cầu sẽ dẫn đến tỷ suất lợi nhuận thấp hơn cho các nhà hàng và cửa hàng, từ đó sẽ làm giảm các ưu đãi của họ để bán các sản phẩm rùa.

Thứ hai, nhóm đề xuất một can thiệp thực thi để giải quyết tình trạng thiếu kiến thức pháp lý và sinh học của các cán bộ thực thi và tòa án ở cấp địa phương. Can thiệp thực thi liên quan đến việc giới thiệu một giáo án giảng dạy mới về hình thái và nhận dạng DNA cho các cán bộ thực thi.

Chương trình giảng dạy mới nên được thiết kế để cung cấp các kỹ năng phát hiện nguồn gốc của động vật nuôi và phân biệt giữa các loài và các chi khác nhau. Lý thuyết về sự thay đổi cho can thiệp này là thực thi mạnh mẽ hơn sẽ làm giảm biên lợi nhuận của những kẻ buôn lậu và do đó làm giảm động lực khiến các chủ trang trại tham gia vào hoạt động tẩy sạch động vật hoang dã.

Thứ ba, nghiên cứu đề xuất một can thiệp chăn nuôi bền vững để thúc đẩy các chủ trang trại thương mại tham gia vào việc nhân giống động vật thích hợp. Can thiệp này sẽ cung cấp cho người nuôi các thiết bị nhân giống phù hợp và kiến thức về kỹ thuật chăn nuôi an toàn và bền vững. Lý thuyết về sự thay đổi của can thiệp này là kiến thức tốt hơn về kỹ thuật chăn nuôi và sự sẵn có của thiết bị phù hợp sẽ giảm chi phí nhân giống rùa đến mức rẻ hơn là tẩy rửa bất hợp pháp nguồn gốc hoang dã của chúng.

Việt Nam:

– Số liệu của WWF năm 2018 cho thấy hơn 4.500 tấn sản phẩm từ động vật hoang dã được bán và tiêu thụ.

– Số liệu của WCS cho thấy gần 1/3 (8.118 bộ phận động vật hoang dã) trong số 26.221 bộ phận động vật hoang dã bị tịch thu từ năm 2013 đến 2017 là rùa. Trong số 1.504 vụ bắt giữ liên quan đến động vật hoang dã, 150 vụ (chiếm 10,31%) liên quan đến rùa, và rùa trở thành nhóm loài lớn thứ hai trong số các vụ bắt giữ động vật hoang dã ở Việt Nam.

– Phần lớn rùa ở Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc – nước có thị trường rùa lớn nhất thế giới, ước tính trị giá 750 triệu USD/năm với hơn 300 triệu con rùa được bán hàng năm.

– Tuy nhiên vẫn có một thị trường đáng kể về rùa quý hiếm ở Việt Nam phục vụ nhu cầu làm thú cưng, đặc sản và làm thuốc, nên khi nguồn cung ngoài tự nhiên thu hẹp thì giá rùa tăng cao. Từ năm 2013 đến 2015, giá rùa hộp trán vàng miền Bắc đã tăng gấp năm lần từ 31,70 USD/kg lên 164,96 USD/kg và giá rùa đất Spengle siêu nhỏ tăng từ khoảng 2 USD lên 105 USD cho một cá thể. Năm 2015, rùa bốn mắt có giá từ 130 đến 250 USD/kg, gấp đôi giá trung bình năm 2013.

– Buôn bán, trao đổi rùa trực tuyến đang tăng nhanh. Khảo sát của nhóm nghiên cứu đại học Duke cho thấy trên Facebook tồn tại rất nhiều nhóm có hàng chục nghìn thành viên hoạt động khá tích cực như: Hội Yêu Rùa Việt Nam (11,397 thành viên), Hội Yêu Rùa Cạn (10,784 thành viên), Hội Yêu Rùa Kiểng Việt Nam (9,462 thành viên).

 

Bích Ngọc