BVR&MT – Rừng Rú Chá cách Huế khoảng 15km thuộc vùng đầm phá Tam Giang. Ngày trước, phá Tam Giang với cửa Thuận An và sông Hương là thủy lộ chính để lên kinh thành Huế nên hồi đó, muốn lên kinh đều phải vượt phá. Phá có sóng nên ca dao có câu:
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang…
Theo nhiều tài liệu ghi lại, địa danh Rú Chá đã có từ rất lâu. Rú là rừng, Chá là cây Chá. Cây Chá thuộc loại cây mọc tự nhiên và có tuổi thọ hàng chục năm. Cây cao từ 2-4 m, đường kính chừng 50 cm và có trái như quả tiêu. Chính cái tên gọi nôm na đó đã gây ra sự tò mò, làm cho nhiều người muốn đến đây khám phá.
Chúng tôi đến Rú Chá vào một chiều tháng 5 nắng nóng. Đường vào rừng hai bên tầng tầng lớp lớp toàn là cây Chá. Chá sừng sững với thân hình gầy guộc, đan nhánh tuyệt đẹp. Luồn lách dưới những vòm cây là không gian mát rượi của rừng cây và gió biển, Những bộ rễ to, bám chặt vào lòng đất tạo ra những hình thù kỳ lạ, những hình tượng vô cùng phong phú.
Người bạn Huế đi cùng với tôi kể là vào khoảng tháng 7- 8 Âm lịch, cây Chá ra hoa rất đẹp. Nhìn từ xa trông như một thảm vàng rực rỡ giữa một khoảng lặng của đất trời, sông nước. Đến mùa nước lên, quả Chá rơi đầy mặt nước, gieo mình vào trong đất hoặc bị nước cuốn đi, để rồi khi mùa Xuân đến, bao giờ rú cũng đón thêm hàng trăm cây con nhô nhú lên trên mặt đất.
Lạ mắt hơn, trên mặt đất xuất hiện nhiều hang còng với những hình thù lạ mắt. Thi thoảng, xuất hiện những chú còng với nhiều màu sắc, có con mang trên mình màu đất rất khó phát hiện, có con nhiều hoa văn xanh, đỏ, chàm…, chúng chạy qua chạy lại rất vui mắt.
Với diện tích khoảng 5ha, Rú Chá hiện là khu rừng ngập mặn nguyên sinh duy nhất còn sót lại của miền Trung. Ngoài hệ sinh thái rừng ngập mặn có diện tích lớn nhất ở khu vực, Rú Chá còn được xem như một vùng đệm sinh thái giữa đất liền và đầm phá. Nơi đây có nhiều loại thủy sinh, chim chóc và các loại cây thân mềm cư trú.
Thế nhưng, it ai biết rằng, để góp phần gìn giữ khu rừng còn nguyên vẻ ban sơ được như ngày hôm nay có công rất lớn của hai vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đáp và bà Trần Thị Hồng. Họ chính là những người đầu tiên và duy nhất tự nguyện đặt chân đến định cư ở cánh rừng này và xem đây như ngôi nhà của mình. Trong căn nhà chừng 30 m2 của ông bà, chúng tôi được nghe ông Đáp kể về câu chuyện rừng Rú Chá như chính câu chuyện của đời mình:
Sau ngày quê hương giải phóng, ông lập gia đình với bà Trền Thị Hồng. Bấy giờ cuộc sống còn vất vả nên đến năm 1990, ông bàn với vợ xin chính quyền địa phương ra rừng Rú Chá để ở. Bấy giờ, Rú Chá rất hoang sơ nên khi nghe chồng bàn vậy, bà Hồng cứ một mực lắc đầu, vì “Vô rú thì biết lấy chi mà sống?”. Thế nhưng ông nói vơi vợ: “Chim trời, cá nước ở Rú Chá thiếu gì, ở đó thì lo chi đói!”. Cuối cùng, bà cũng đồng ý theo ông.
Sau khi lo cho các con tạm ổn cuộc sống ở trong làng, ông và vợ vào rừng và chọn một bãi bồi khá cao ở giữa rồi dựng một căn nhà tạm để có nơi trú. Căn nhà lá nằm lọt thỏm trên một hòn đảo nhỏ có diện tích chưa đến 1ha. Không điện, không nước ngọt, không hàng xóm và tách biệt với cộng đồng.
Những ngày đầu mới chuyển vào đây, ông cho biết cây Chá mọc còn khá thưa thớt. Để mưu sinh, ông đã xin đấu thầu một thửa đất cạnh rú để đắp đập thả tôm, cá. Còn bà Hồng thì vay mượn để mua gà, vịt về nuôi. Rừng ngập mặn cũng nhiều tôm cá nên hai ông bà cũng sống đủ qua ngày.
Lâu dần, càng về sau, càng có nhiều người chú ý đến Rú Chá hơn. Họ vào đó để đánh bắt tôm cá. Có một khoảng thời gian khá dài, Rú Chá trở thành nguồn sống của người dân xã Thuận Hòa. Nguy cơ nhất là không chỉ khai thác nguồn tôm cá, người dân còn tranh thủ đốn vài bó củi Chá về để làm chất đốt. Từ vài người, cho đến gần cả làng đua nhau đi đốn củi, khiến diện tích Rú Chá ngày càng bị thu hẹp.
Chứng kiến cánh rừng có nguy cơ bị xóa sổ, vợ chồng ông rất xót xa và chỉ biết nhắc khéo bà con phải kiếm củi bằng cách khác, không nên chăm chăm chặt cây Chá, cứ như thế này thì rừng sẽ bị xóa sạch. Hơn ai hết, ông bà hiểu rằng vùng đất này có thể che chắn nước biển khỏi xâm thực và tránh những ngọn sóng, cơn gió cho cái làng Thuận Hòa này. Nếu không kịp thời ngăn chặn thì những cái lợi trước mắt sẽ khiến người dân nơi đây phải chịu những khó khăn, thậm chí là tai họa rất lớn về sau. May thay, chỉ ít lâu sau, tỉnh và huyện có chính sách bảo vệ rú để đảm bảo rừng phòng hộ, vậy là hai vợ chồng ông lên xã để xin nhận công việc bảo vệ rừng.
Không chịu để cảnh cả khu rừng trở thành đồi trọc, với quyết tâm bảo vệ rừng, cứ đêm xuống ông lặn lội đi xem xét kiểm tra xem có người nào chặt cây để sớm hôm sau, đạp xe lên báo cho trưởng thôn. Đến tháng 9, tháng 10, khi đàn cò trắng và nhiều loài chim khác bay về, ông lại tất bật đi gỡ bẫy để không một con cò, con cuốc nào về rừng bị dính bẫy. Nhờ thế mà chiều chiều, từng đàn cò vỗ cánh rợp trời trở về rừng trú ngụ. Vì thế, ông cũng gặp không ít “rắc rối” từ phía những đối tượng bẫy chim, chặt cây, thậm chí một số còn buông lời đe dọa. Ông cười tươi: “Mặc kệ, miễn sao bảo vệ Rú Chá này là được. Tôi coi Rú Chá như tính mạng của mình…”
Kể từ khi có bàn tay hai vợ chồng ông Đáp chăm sóc, những cây chá, cây sú đua nhau bén rễ sinh sôi phát triển, chim muông đua nhau tìm về. Màu xanh bao phủ cả cánh rừng ngập mặn vốn hoang vu tiêu điều. Không ít gốc Chá xanh tốt cao quá đầu người chính là thành quả của việc hai vợ chồng không nề hà vất vả để ươm trồng và chăm sóc suốt bao nhiêu năm qua.
Tôn Thất Thọ