Gói vay cấp bù lãi suất cứu doanh nghiệp, thực hiện sao cho hiệu quả?

BVR&MT – Ông Nguyễn Tuấn Anh – Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết: Các ngân hàng đang lên kế hoạch gói cấp bù lãi suất 3.000 tỷ đồng, quy mô tương đương hơn 100.000 tỷ đồng với lãi suất 3 – 4%/năm để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn trong bối cảnh dòng tiền cạn kiệt vì dịch bệnh.

Sáng kiến chính sách cấp bù lãi suất không chỉ tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp mà còn kích hoạt nguồn vốn trong xã hội. Ảnh: TTXVN

“Từ những kinh nghiệm trước đây, trong thời gian tới khi xây dựng cơ chế chính sách, NHNN sẽ tính toán đến các mục tiêu nhưng quan trọng nhất vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát”, ông Nguyễn Tuấn Anh chia sẻ.

Thận trọng để tránh các hệ luỵ

Quốc hội và Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách cứu trợ doanh nghiệp nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn than không đủ, chưa tiếp cận được nguồn vốn rẻ. Giới chuyên gia kinh tế kỳ vọng: Gói “cấp cứu” bù lãi suất lần này phải tạo được dấu ấn riêng, tăng thêm quy mô hơn nữa với các thủ tục triển khai thuận lợi nhanh chóng để cứu doanh nghiệp, tạo sức bật cho nền kinh tế phục hồi rõ rệt.

Đề cập tới việc thị trường sắp có hơn 100.000 tỷ đồng tín dụng ưu đãi được “bơm” ra nền kinh tế, TS Lê Xuân Nghĩa – thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia cho rằng: Việt Nam cần phải thiết kế gói hỗ trợ với quy chế đặc biệt để không phải sửa Luật Tổ chức tín dụng nhưng thận trọng để tránh những hậu quả ảnh hưởng tới nền kinh tế, phải có giới hạn các “chốt” để kiểm soát lạm phát, giữ được ổn định vĩ mô.

Theo TS Lê Xuân Nghĩa, năm 2009 – trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt Nam từng có gói hỗ trợ lãi suất tương tự (1 tỷ USD) với lãi suất hỗ trợ 4%/năm để hỗ trợ cho vay các dự án và chương trình đầu tư. “Tuy nhiên, những ‘chốt’ về vĩ mô và vi mô không lường trước nên hệ lụy của gói hỗ trợ đã để lại tương đối lớn. Lạm phát tăng mạnh, làm xói mòn tăng trưởng kinh tế”, ông Lê Xuân Nghĩa cho biết.

Trong khi đó, mức tăng trưởng GDP không có dấu ấn nhiều. Nếu như năm 2009, GDP Việt Nam là 5,3%/năm, năm 2010 nhích lên 6,78%/năm thì năm 2011 lại giảm xuống 5,89%. Tăng trưởng tín dụng được nới lỏng quá mức. Năm 2009, tăng trưởng tín dụng tăng “phi mã” lên tới 37,3%; năm 2010, tăng trưởng tín dụng là 27%. Bên cạnh đó, chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát năm 2009 và 2010 chỉ ở mức 6,88%/năm; 9,19%/năm nhưng sang năm 2011 lại “phi mã” lên tới 18,58%/năm.

Để tránh những hậu quả về vĩ mô và vi mô không đáng có, chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa lưu ý: “Cơ quan quản lý phải giới hạn các “chốt”, đó là: Giữ mức tăng trưởng tín dụng hợp lý, không đẩy lên quá cao; kiềm chế tốc độ lạm phát; duy trì mức tăng hợp lý của tỷ giá hối đoái; phải chấp nhận nợ xấu nhưng ở mức độ nào, làm thế nào để ổn định thanh khoản hệ thống ngân hàng?”.

Một số chuyên gia “hiến kế”: Việt Nam có thể dùng chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương tạo hiệu ứng giảm mặt bằng lãi suất chung. Ví dụ, ngân hàng giảm lãi suất 1%/năm, cộng với gói kích thích lãi suất có lãi suất khoảng 2 – 3%/năm để tạo hiệu ứng giảm lãi suất cho các doanh nghiệp. Phía Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu hoặc vay ngân hàng Trung ương.

Theo Tiến sỹ Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, năm 2009, Việt Nam sử dụng 1 tỷ USD, tương đương 17.000 tỷ đồng để cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp. Nguồn tiền lấy từ Quỹ dự trữ ngoại hối nhưng đến nay, ngân hàng vẫn chưa được quyết toán hết. Đó là sự vướng mắc. “Mặc dù chính sách cấp bù lãi suất có hiệu ứng nhất định nhưng hậu quả để lại không hề nhỏ. Thanh khoản hệ thống ngân hàng gặp vấn đề lớn, nợ xấu liên tục tăng cao. Chính phủ phải thành lập công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng để giải quyết hệ quả. Gói hỗ trợ lãi suất lần này cần phải tính toán cẩn trọng trên mọi phương diện”, ông Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.

Mong bơm vốn khẩn

Rất nhiều doanh nghiệp đang hoạt động “thoi thóp”, thậm chí phá sản khi đại dịch kéo dài. Vì vậy nhiều ý kiến cho rằng: Nếu doanh nghiệp được tiếp cận nguồn tín dụng lãi suất thấp sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, tái đầu tư sản xuất kinh doanh.

“Ngành Ngân hàng cần tính toán để có thể cho được nhiều doanh nghiệp vay vốn ưu đãi; ngân hàng cần mở rộng hơn nữa đối tượng vay từ đó, mới phát huy được hết ý nghĩa của việc NSNN cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp thông qua tổ chức trung gian là ngân hàng”, ông Tô Hoài Nam – Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (Vinasme) kiến nghị. Theo quy định của ngân hàng, doanh nghiệp được vay vốn với tài sản đảm bảo là hình thức tín chấp nhưng hiện rất ít ngân hàng chưa mạnh dạn cho vay. Tỷ lệ doanh nghiệp được vay tín chấp rất thấp, đặc biệt các khoản vay mới.

“Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, dòng tiền như oxy đối với doanh nghiệp nên gói hỗ trợ cần được mở rộng quy mô và ban hành sớm”, ông Nguyễn Quốc Kỳ, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam (Vietravel) mong mỏi.

Hiện, Vietravel có 1.700 nhân viên nhưng có những thời điểm tại công ty chỉ có từ 15 – 20 người làm việc để duy trì các hoạt động hành chính thông thường, bảo vệ cơ sở vật chất. Nếu như trước dịch, doanh thu của Vietravel đạt khoảng 7.000 – 8.000 tỷ đồng/năm, nay doanh thu chỉ đạt chưa tới 10%. Không chỉ Vietravel, tất cả các công ty du lịch, lữ hành đều bị ảnh hưởng rất nặng nề. Theo ông Nguyễn Quốc Kỳ, tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2021 là 56%, thặng dư ngân sách Nhà nước 83.000 tỷ đồng, lạm phát khoảng 3,1%, dự trữ ngoại hối trên 3 con số. Điều này cho thấy Chính phủ có nguồn lực để có thể tung ra các gói hỗ trợ doanh nghiệp.

Tính toán của các doanh nghiệp hàng không cho thấy: Trung bình chi phí bình quân ngày trong 6 tháng đầu năm nay của Vietnam Airlines đã giảm còn bằng 1/4; Vietjet giảm còn bằng 1/5 lần so với chi phí bình quân năm 2019 nhưng số nợ và tình trạng thiếu hụt dòng tiền của các hãng đã lên tới con số “khổng lồ”. Số nợ ngắn hạn và nợ đến hạn phải trả của Vietnam Airlines, Vietjet và Bamboo hiện lên tới trên 50.000 tỷ đồng. Dòng tiền hoạt động của các hãng bị thiếu hụt hàng chục ngàn tỷ đồng.

Trước tình hình này, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp hàng không Việt Nam, Tiến sỹ Bùi Doãn Nề kiến nghị: Chính phủ cần tiếp tục hỗ trợ ngành Hàng không một khoản đầu tư để nuôi dưỡng nguồn thu trung và dài hạn; hỗ trợ để doanh nghiệp phục hồi, bảo toàn được nguồn vốn và hỗ trợ việc thanh khoản. Về chính sách nguồn vốn, nên xem xét cho các hãng hàng không khác được hưởng lãi suất 0% như đã thực hiện với Vietnam Airlines.

Tuy nhiên cũng có chuyên gia kinh tế lo ngại: Chính sách bù tiền để giảm lãi suất thấp sẽ làm méo thị trường tài chính. Để trợ giúp doanh nghiệp trong bối cảnh này cần tạo điều kiện thông thương hàng hóa, nhanh chóng đầu tư vào các hạ tầng giao thông để phục vụ sản xuất. Có nhiều cách để hỗ trợ doanh nghiệp và những chính sách đó nên hướng theo tiêu chuẩn chung của thị trường không nên làm méo thị trường vốn trong vấn đề lãi suất.

Trước đó, trong phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ yêu cầu Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định ngay trong kỳ họp tháng 10/2021 các giải pháp về cấp bù lãi suất cho ngân hàng để giảm lãi vay nhằm tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp và giải pháp hỗ trợ dựa trên chi phí lao động, trên quan điểm hỗ trợ có chọn lọc, đúng và trúng mục tiêu, đối tượng tránh việc hỗ trợ tràn lan, dàn trải.