Doanh nghiệp Việt từng bước tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu

BVR&MT – Thay vì hoàn toàn phụ thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài thì điều đáng mừng là hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã đủ năng lực tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Doanh nghiệp Việt Nam chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tham gia chuỗi cung ứng bằng năng lực và chất lượng sản phẩm

Là một trong những doanh nghiệp sản xuất ngành công nghiệp điện tử, gần đây, một số doanh nghiệp FDI lớn đã tìm đến Công ty TNHH MTV Công nghệ cao Điện Quang để đặt hàng.

Ông Trần Bá Linh, Giám đốc sản xuất Công ty TNHH MTV Công nghệ cao Điện Quang, chia sẻ: “Một số doanh nghiệp FDI đã tới công ty chúng tôi đánh giá cũng như kiểm tra, kiểm soát chất lượng đạt chất lượng và bắt đầu đặt hàng. Chúng tôi cũng cung cấp cho phía họ chứng nhận để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu”.

Bên cạnh lĩnh vực sản xuất, logistics cũng là lĩnh vực đầy tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng với các đối tác FDI.

Ông Mai Trần Thuật, Giám đốc phụ trách Supply Chain Solutions, Bee Logistics Group, chia sẻ, khi các Hiệp định thương mại tự do như Hiệp định EVFTA có hiệu lực đã tạo ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp logistics ở Việt Nam. Đặc biệt, cùng với xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc, các doanh nghiệp của EU đầu tư vào Việt Nam rất nhiều. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp logistics có thêm việc làm và doanh thu trong giai đoạn Covid-19.

“Bản thân các doanh nghiệp như Bee Logistics cũng đi trước đón đầu, hợp tác với các hãng lớn để làm thầu phụ cho họ, để gia tăng sự hiện diện của doanh nghiệp logistics Việt Nam với các doanh nghiệp của châu Âu”, ông Thuật nói. Việc tham gia các chuỗi cung ứng với doanh nghiệp nước ngoài được đánh giá là bước đi khôn ngoan của doanh nghiệp nội địa trong bối cảnh cả nguồn vốn và năng lực của doanh nghiệp Việt Nam chưa thể đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp FDI.

Cùng với sự dịch chuyển chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia về Việt Nam thì rất nhiều “ông lớn” trong ngành sản xuất, dịch vụ như Samsung, Panasonic, LG, Bosch, Marsk… Việt Nam đang tiếp tục tìm kiếm nhà cung cấp thiết bị phụ trợ tại Việt Nam. Điều đáng mừng các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang đáp ứng tiêu chuẩn của những ông lớn này để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Một số doanh nghiệp dệt may đã cung ứng nguyên phụ liệu cho chuỗi sản xuất.

Riêng với lĩnh vực công nghiệp, theo đánh giá của Cục Công nghiệp, Bộ Công thương, hiện Việt Nam chưa có doanh nghiệp đóng vai trò dẫn dắt mang tính lan tỏa trong ngành công nghiệp. Tuy vậy, đến nay đã ghi nhận khoảng 30% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

Cụ thể, trong ngành dệt may da giày: 64% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cung cấp cho thị trường trong nước (trong đó 3% cung cấp cho doanh nghiệp FDI), 9% xuất khẩu và 27% cung cấp cho cả hai thị trường; điện tử có 44% doanh nghiệp cung cấp cho thị trường trong nước (trong đó 22% cung cấp hoàn toàn cho FDI), 16% cung cấp cho thị trường xuất khẩu và 40% số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của ngành cung cấp cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu…

Khắc phục hạn chế

Theo phản ánh của các doanh nghiệp, trong thời gian qua, các tập đoàn sản xuất lớn của thế giới hoạt động tại Việt Nam đang đẩy mạnh việc tìm kiếm nhà cung cấp tại chỗ để tăng tỷ lệ nội địa hóa. Tuy vậy, vấn đề hiện nay là khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế bởi những yêu cầu để tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp sản xuất đầu cuối rất khắt khe.

Bà Phạm Thị Quỳnh Hương, Công ty Source Of ASIA, chia sẻ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ yêu cầu cao về chất lượng và giá thành. Nếu như giá thành của doanh nghiệp không cạnh tranh được với các thị trường khác thì cũng rất khó để tiến sâu vào chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi vào Việt Nam đòi hỏi các yêu cầu về chứng chỉ mà chưa chắc doanh nghiệp Việt đã đáp ứng được ngay lập tức.

Nhận thấy hạn chế hiện nay trong quá trình tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, các doanh nghiệp Việt đang ngày càng cải thiện bằng việc đầu tư máy móc, quản trị cũng như cải tiến quy trình làm việc, nâng cao chất lượng sản phẩm, linh kiện. Tuy vậy quá trình này của doanh nghiệp lại đang vấp phải không ít khó khăn.

Ông Đỗ Phước Tống, Chủ tịch Hội Cơ khí điện Thành phố Hồ Chí Minh, nêu thực trạng, hiện nguồn lực của doanh nghiệp Việt Nam nói chung chưa lớn. Một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư song số lượng vẫn quá ít so với nhu cầu của nền kinh tế hiện nay. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp.

Về phía doanh nghiệp, ông Trần Bá Linh kiến nghị, để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp đang tìm kiếm cơ hội hợp tác với một số doanh nghiệp nội địa để mở rộng thêm nguồn cung ứng cũng như phụ liệu nhằm bảo đảm nguồn cung nguyên vật liệu không bị đứt gãy.

Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Công thương đã và đang tích cực hợp tác với cơ quan Chính phủ các nước (Hàn Quốc, Nhật Bản, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh… ), các tổ chức quốc tế và một số tập đoàn đa quốc gia lớn (điển hình như Samsung) triển khai các dự án hợp tác nhằm cải tiến doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước và tăng cường kết nối doanh nghiệp nội địa với các chuỗi sản xuất toàn cầu.

Về dài hạn, giải pháp đặt ra là hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp trong nước (chú trọng phát triển nguồn nhân lực công nghiệp và khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với thực tiễn, với nhu cầu doanh nghiệp công nghiệp trong nước).

Bên cạnh đó, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI và thị trường toàn cầu nhằm tận dụng tốt cơ hội từ các Hiệp định tự do thương mại, từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đưa doanh nghiệp công nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.