Để Việt Nam trở thành công xưởng sản xuất tôm của thế giới

BVR&MT – Theo ông Lê Anh Xuân, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty N.G Vietnam – người có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực sản xuất tôm siêu thâm canh, thì việc xây dựng ngành công nghiệp tôm sẽ giải quyết được 6 nội dung lớn, quy mô rộng của quốc gia hiện nay.

Thủ tướng tham quan mô hình nhà máy chế biến tôm. Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Đầu Xuân Đinh Dậu 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có cuộc đối thoại với giới kinh doanh và bà con về con tôm tại thủ phủ Cà Mau.

Là người có nhiều năm gắn bó với con tôm ở miền đồng bằng châu thổ Cửu Long, ông Lê Anh Xuân, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty N.G Vietnam cho biết, ông rất tâm đắc với nhiều nhận định của Thủ tướng, đặc biệt là ý kiến trăn trở việc làm thế nào để Việt Nam trở thành công xưởng sản xuất tôm của thế giới.

Cổng TTĐT Chính phủ xin giới thiệu bài viết của ông Xuân về những kiến nghị “để Việt Nam trở thành công xưởng sản xuất tôm của thế giới”.

Ý nghĩa đằng sau mong muốn của Thủ tướng

Tại hội nghị, Thủ tướng nói rằng “Việt Nam phải trở thành công xưởng sản xuất tôm chất lượng cao của thế giới, sản xuất tôm của Việt Nam phải phấn đấu đóng góp được 10 tỷ USD trước năm 2025 vào GDP quốc gia”, theo tôi đó vừa là nhận định đúng về tiềm năng và khai thác cơ hội nguồn lợi tự nhiên riêng có của Việt Nam, vừa là ý kiến chỉ đạo về phương thức để tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp và nhiều ngành, lĩnh vực khác.

Hiện nay, tại Cà Mau đã có một số mô hình nuôi tôm siêu thâm canh, sử dụng công nghệ cao, đáp ứng được năng suất nuôi trồng lên tới 120 tấn/ha/năm và sản xuất ổn định trong điều kiện thời tiết bất thuận lợi như năm 2016. Nếu các mô hình đó được nhân rộng thì chỉ cần 10.000 ha nuôi chúng ta đã có thể đạt được sản lượng 1,2 triệu tấn tôm thương phẩm chất lượng cao, tức là gấp đôi sản lượng sản xuất của cả Việt Nam hiện nay (660.000 tấn/năm và sử dụng tới 680.000 ha để sản xuất).

Như vậy, nếu sắp xếp, cơ cấu lại mô hình tổ chức sản xuất, chứ chưa cần mở rộng diện tích sản xuất, thì chúng ta cần dưới 30.000 ha mặt nước nuôi trồng (tương đương 120.000 ha đất – tỉ lệ theo quy hoạch nuôi siêu thâm canh công nghệ cao) (3) trên tổng diện tích 680.000 ha hiện nay đã có thể đạt được chỉ tiêu của Chính phủ và Thủ tướng đề ra.

Đó là phương thức trọng yếu để tổ chức lại cách thức và tài nguyên phục vụ sản xuất nông nghiệp, mang lại kết quả đột phá về năng xuất, chất lượng cũng như tiết giảm được chi phí quốc gia như hạ tầng lưới điện, giao thông, tài chính phải kéo tới các khu vực sản xuất năng suất thấp, manh mún và chất lượng kém như hiện nay.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tham quan gian hàng thực phẩm được chế biến từ tôm. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Một số đề nghị mạnh dạn    

Là người có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực sản xuất tôm siêu thâm canh, cá nhân tôi thấy rằng: Xây dựng ngành công nghiệp tôm sẽ giải quyết được 6 nội dung lớn, quy mô rộng của quốc gia hiện nay.

Một là, phát triển các khu vực có tài nguyên biển, nhưng đói nghèo, chậm phát triển hoặc không có điều kiện phát triển lĩnh vực khác.

Hai là, giải quyết việc làm tại chỗ cho một số lượng lớn lao động thiếu việc làm tại các khu vực khó khăn.

Ba là, xây dựng các thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế.

Bốn là, xây dựng, kiến tạo một ngành/lĩnh vực có đóng góp lớn cho GDP quốc gia.

Năm là, cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nguồn đất nông nghiệp đang được sử dụng trồng lúa kém hiệu quả hiện nay.

Sáu là, có giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên do biến đổi khí hậu mang lại – đặc biệt khu vực ĐBSCL.

Quyết sách đúng, mạnh mẽ và đột phá của Chính phủ sẽ kiến tạo nên một ngành công nghiệp mũi nhọn, có sức sống lâu dài, tạo nên được thương hiệu quốc gia trên bản đồ thế giới, cũng như tạo dựng nên được một số thương hiệu quốc tế trong lĩnh vực thực phẩm – điều này hoàn toàn phù hợp và nêu cao tiêu chí của Chính phủ ta nhiệm kỳ này: Chính phủ kiến tạo.

Kiến tạo ngành công nghiệp tôm sẽ là hình mẫu cho công cuộc phát triển các ngành, lĩnh vực khác về lâu dài; là động lực cho các ngành công nghiệp khác phát triển như công nghệ sinh học, công nghiệp hóa chất, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa…

Kiến tạo ngành công nghiệp tôm sẽ kèm theo làn sóng khởi nghiệp với tư duy, phương thức hiện đại trên diện rộng và hiệu quả kinh tế rất cao.

Tôi cũng xin mạnh dạn có thêm một số ý kiến và kiến nghị làm rõ thêm nhằm triển khai bằng được nhận định và quyết tâm của Chính phủ, Thủ tướng.

Một thời gian dài chúng ta chưa đánh giá đúng, đủ, tiềm năng, lợi thế và quy mô của ngành nuôi tôm của Việt Nam so với các ngành, lĩnh vực khác; ở hầu hết các cấp, các địa phương, dẫn tới chưa chú trọng quy hoạch, điều hành khu vực sản xuất này ngang tầm với tiềm năng mà điều kiện tự nhiên riêng có của Việt Nam mang lại.

Ảnh minh họa.

Do đó, cần đánh giá đúng, đủ khả năng đóng góp của ngành tôm vào GDP quốc gia so với các ngành, lĩnh vực khác hiện nay và trong lâu dài trên các chỉ tiêu: Ngoại tệ mang về cho đất nước; tổng nguồn lợi của xã hội; giải quyết vấn đề lao động dôi dư ở các khu vực khó khăn, chưa có điều kiện phát triển, chỉ số ICOR của ngành; quy mô nguồn lực xã hội đang được đầu tư hoặc sử dụng như tài chính, quỹ đất, hạ tầng giao thông, hạ tầng điện…

Nuôi trồng và chế biến tôm là ngành có khả năng đóng góp lớn, tầm nhìn phải đáp ứng như Thủ tướng đã nhận định: “Việt Nam phải là trung tâm sản xuất tôm của thế giới”, vì vậy phải có chính sách đột phá, cách làm đột phá, doanh nghiệp đột phá và con người đột phá để triển khai bằng được nhận định này.

Cần thiết phải có chương trình trọng điểm quốc gia cho lĩnh vực này, cần thành lập ban chỉ đạo chương trình ở cấp Trung ương, tỉnh, thành phố và cấp cơ sở là cấp huyện; người đứng đầu Chính phủ phải là trưởng ban; người đứng đầu chính quyền các tỉnh, thành phố phải đứng đầu ban chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố; người đứng đầu chính quyền cấp huyện phải đứng đầu ban chỉ đạo cấp cơ sở.

Chương trình trọng điểm quốc gia về phát triển ngành tôm cần có mục tiêu cụ thể, có tính chất đột phá trong một khoảng thời gian cụ thể (nên là 4 năm) như: Việt Nam có thể chủ động sản xuất nguồn giống kháng bệnh và tăng trưởng nhanh (như Ecuador hiện nay đã làm được). Việt Nam có thể chủ động sản xuất nguồn thức ăn cho tôm chất lượng cao sử dụng nguyên liệu bột cá địa phương, thay vì nhập khẩu nguồn bột cá của Peru để giảm giá thành và tránh tình trạng lệ thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài đang chi phối như hiện nay (như Ấn Độ đã làm được).

Việt Nam phải làm chủ được công nghệ sinh học, vi sinh phục vụ ngành tôm. Cần thiết phải hình thành khoa nuôi tôm – tách ra từ khoa nuôi trồng thủy sản – của các trường đại học nhằm chuyên sâu hóa công tác đào tạo và nghiên cứu phục vụ mục tiêu quốc gia.

Chỉ có mục tiêu cụ thể, thời hạn cụ thể thì mới có thể thúc đẩy sự vào cuộc quyết liệt của Trung ương, các tỉnh, thành phố và các cơ quan chuyên môn.

Chương trình trọng điểm quốc gia về tôm phải được triển khai ở quy mô sản xuất lớn, lấy hình thức sản xuất công nghiệp là chủ yếu, hình thức sản xuất bán thâm canh hoặc xen canh hoặc sinh thái là thiểu số và chỉ nên được triển khai tại các khu vực cần bảo tồn, bởi có như vậy chúng ta mới có thể hình thành nền sản xuất lớn và chuyên nghiệp. Lấy tư duy công nghiệp, đòi hỏi kỹ thuật, kỷ luật cao để triển khai chương trình trọng điểm, thay vì quan niệm nuôi tôm đơn thuần là lĩnh vực nông nghiệp.

Trong chuỗi sản xuất ra sản phẩm tôm thì khâu nuôi trồng đóng vai trò quan trọng nhất, vì khó nhất, liên quan tới sinh kế của số đông bà con nông dân và mang giá trị gia tăng nhiều nhất, do đó cần thiết tập trung quan tâm và chỉ đạo vào khâu nuôi trồng hơn khâu chế biến như hiện nay.

Về quy hoạch, hiện chưa có quy hoạch rõ ràng ở hầu khắp các địa phương; công tác quy hoạch chưa thực hiện đúng, đủ 2 nhiệm vụ thiết yếu, đó là: Là công cụ kỹ thuật mạnh phục vụ khu vực sản xuất; là công cụ quản trị mạnh phục vụ công tác điều hành. Chưa có quy chuẩn về quy hoạch vùng nuôi, cũng như quy chuẩn về quy hoạch ao nuôi của từng hộ nuôi, dẫn tới tình trạng hiệu quả sử dụng đất thấp, năng suất nuôi trồng thấp, ô nhiễm có khả năng xảy ra trên diện rộng, an toàn sinh học ở mức thấp, có khả năng lây lan, mất kiểm soát trong công tác phòng chống dịch.

Do đó, phải thực hiện quy hoạch và tối đa hóa phần diện tích được quy hoạch có thể sử dụng vào mục đích nuôi tôm ở các tỉnh, thành phố có điều kiện phù hợp – đặc biệt chú trọng và sớm tiến hành công tác quy hoạch tại các tỉnh thuộc ĐBSCL để nhanh chóng sử dụng được điều kiện tự nhiên ưu đãi và là phương án tốt để đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay.

Chính phủ nên cân nhắc tới việc chuyển đổi một phần diện tích lúa kém hiệu quả sang mục đích nuôi tôm. Ngoài quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương thì cần thiết phải chuẩn hóa việc quy hoạch tại từng tiểu khu, hộ nuôi trồng. Chỉ hộ nuôi trồng nào đáp ứng thực hiện quy hoạch thì mới cấp phép, cấp điện, tránh tình trạng nuôi trồng mà không có quy hoạch dẫn tới năng suất thấp, dịch bệnh và phát tán dịch bệnh.

Tại các địa bàn trọng điểm nuôi tôm, như khu vực ĐBSCL thì phải lấy quy hoạch vùng nuôi tôm là chủ yếu, các công tác quy hoạch khác cần phải cân nhắc tới khả năng ảnh hưởng tới quy hoạch nuôi tôm.

Tôm là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong nhóm hàng thủy sản.

Hiện nay, quỹ đất phục vụ nuôi trồng nhìn chung là nhỏ lẻ, rời rạc, dẫn tới khó kêu gọi được các nhà đầu tư lớn, khó triển khai quy hoạch bài bản, bảo đảm năng suất cao. Quỹ đất có thể nuôi tôm tại nước ta, đặc biệt là khu vực ĐBSCL còn rất nhiều, tuy nhiên để hoang hóa, không được sử dụng do bà con không thể nuôi trồng, hoặc đã nuôi trồng nhưng thất bại do không có kỹ thuật.

Do vậy, đề nghị Chính phủ sớm có chính sách để có thể huy động được quỹ đất này vào sản xuất dưới hình thức 3 nhà kết hợp: Nhà nước, nhà doanh nghiệp và người dân. Trong đó Nhà nước giữ vai trò thuê quỹ đất của người dân và cho doanh nghiệp thuê lại có tính tới yếu tố quyền lợi và sử dụng lao động là người chủ đất thực sự.

Hoặc Nhà nước là trung gian để doanh nghiệp liên kết với người dân trong việc đưa quỹ đất vào hoạt động để bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của cả người dân và doanh nghiệp đầu tư, hoặc hình thức cổ phần giữa doanh nghiệp và người dân – trong đó người dân mang quỹ đất làm cổ phần – có sự tham gia về mặt pháp lý của Nhà nước.

Để hình thành được nền sản xuất lớn trong lĩnh vực tôm thì Việt Nam nhất thiết phải có một số doanh nghiệp hạt nhân trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến.

Trong lĩnh vực nuôi trồng sản xuất tôm hiện nay còn thiếu vắng những doanh nghiệp hạt nhân mang tính hình mẫu và động lực cho ngành. Đây là đặc điểm chung, không chỉ xuất hiện ở Việt Nam mà còn điển hình ở các cường quốc xuất khẩu tôm khác như Thái Lan, Ấn Độ.

Khai thác và khắc phục được đặc điểm này hoàn toàn có thể mang lại động lực mới mang tính đột phá của Việt Nam so với các quốc gia khác, bởi vậy, để hình thành được nền sản xuất lớn trong lĩnh vực tôm thì Việt Nam nhất thiết phải có một số doanh nghiệp hạt nhân trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến tôm.

Các doanh nghiệp này sẽ thực hiện 3 nhiệm vụ: Hình thành thương hiệu quốc gia trên thị trường thế giới; định hướng, xây dựng và dẫn dắt công nghệ nuôi trồng, chế biến kỹ thuật cao cho quốc gia; tạo thành một hệ sinh thái các doanh nghiệp, hộ nuôi trồng kéo theo.

Từ kinh nghiệm bản thân cho thấy, qua các lao động tại doanh nghiệp NG Vietnam – môi trường đòi hỏi tác phong công nghiệp, kỹ thuật lao động cao, quy trình chặt chẽ với năng suất nuôi trồng rất cao đã lan tỏa được phương thức, quy trình, tác phong công nghiệp tới số đông người nuôi trồng tại địa phương và chuyển biến, lan tỏa được hiệu quả ra bên ngoài.

Phải phát hiện các mô hình ở nhiều cấp quy mô đầu tư, quy mô quỹ đất sử dụng có hiệu quả cao và tiến hành truyền thông phổ biến tới số đông bà con để nhân rộng mô hình. Tránh tình trạng một số hãng nước ngoài và ngay cả công ty sản xuất con giống, thức ăn trong nước vì tìm kiếm lợi nhuận đã phổ biến quy trình nuôi trồng chưa hiệu quả cao tới bà con làm gia tăng chi phí sản xuất.

Hiện các đơn vị chức năng như các viện, cơ quan nghiên cứu vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt, nhưng vẫn còn hạn chế trong công tác bám địa bàn, bám dân để hỗ trợ nông dân trong sản xuất. Công tác nghiên cứu chưa theo kịp đòi hỏi phát triển của ngành; kết quả nghiên cứu chưa chuyển giao hiệu quả, dẫn tới năng suất nuôi trồng hiện nay còn thấp.

Vì chưa có hình mẫu phát triển, cũng như quy chuẩn trong công tác nuôi trồng, nên tình trạng chung hiện nay là nuôi trồng theo thói quen, bắt chước về hình thức nhưng không hiểu bản chất, dẫn tới ngoài việc năng suất thấp là chất lượng sản phẩm tôm kém, hiện tượng tôm có dư lượng kháng sinh vượt mức cho phép là phổ biến, dẫn tới nghi ngại, buộc một số quốc gia phải dựng hàng rào kỹ thuật đối với tôm nhập từ Việt Nam và ảnh hưởng trực tiếp tới thương hiệu tôm Việt Nam cũng như giá trị mang về. Tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng phục vụ nuôi trồng tôm làm tổn hại nghiêm trọng tới khu vực sản xuất này và làm gia tăng đáng kể các yếu tố quan ngại.

Đối với khu vực chế biến tôm, hiện có một số nhà chế biến nhập tôm từ khu vực chịu thuế xuất cao vào Liên minh châu Âu (như Ấn Độ hiện nay chịu mức thuế là 12% khi vào châu Âu) về Việt Nam rồi lại xuất sang châu Âu (Việt Nam được hưởng mức thuế ưu đãi là 4,2%) để hưởng lợi nhuận, nhưng gây tổn hại nghiêm trọng và diện rộng tới nền kinh tế cũng như uy tín quốc gia khi Liên minh châu Âu đang tiến hành điều tra và có thể điều chỉnh mức thuế ưu đãi hiện nay. Lợi nhuận nhỏ của một số doanh nghiệp đang gây tổn hại lớn cho cả một ngành sản xuất tiềm năng lớn.

Về công tác phân bổ nguồn lực quốc gia hay chính sách hỗ trợ: Hiện nay công tác này còn chưa hợp lý. Đơn cử như chính sách hỗ trợ/cho vay tài chính cho các hộ nuôi trồng được thực hiện còn rất hạn chế, nhỏ lẻ. Một khi người nuôi trồng nhận không đủ khoản hỗ trợ hoặc cho vay để đầu tư thì nguy cơ cao là khoản hỗ trợ hoặc cho vay đó sẽ mất trắng hoặc sử dụng sai mục đích, điều đó càng khó khăn cho bà con.

Vì vậy, kiến nghị cần sớm thực hiện khoản vay ưu đãi như Thủ tướng đã chỉ đạo, sớm đưa luồng tài chính này vào sản xuất. Trong quá trình thực hiện cần có cơ chế đặc biệt để vừa giảm được rủi ro vừa nhanh chóng thúc đẩy được sản xuất.

Để nâng cao năng suất và gia tăng lợi nhuận cho bà con, cần khuyến khích mô hình nuôi tôm siêu thâm canh sử dụng công nghệ cao bằng các nguồn tài chính ưu đãi. Nên tập trung vào khu vực, mô hình này thay vì hỗ trợ cho các mô hình kém hiệu quả và nhiều rủi ro.

Cần sớm xác định, gây dựng một số doanh nghiệp hạt nhân mang tính chất động lực cho toàn  ngành và có chính sách quan tâm, hỗ trợ đột phá nhằm triển khai được nhiệm vụ đột phá như hỗ trợ tài chính, hỗ trợ nghiên cứu và kỹ thuật, hỗ trợ quỹ đất nuôi trồng lớn…

Lĩnh vực sản xuất tôm phải được hưởng ưu đãi như các lĩnh vực trọng yếu khác, bao gồm cả hỗ trợ điện, giao thông tới các khu vực sản xuất lớn hoặc khu vực sản xuất tập trung.

Trên đây là một số ý kiến của cá nhân tôi, mong nhận được sự đồng thuận của mọi người để cùng hướng tới mục đích đưa con tôm Việt Nam đi khắp năm châu bốn biển.