Công tác Bảo vệ thực vật trước xu hướng sản xuất sạch

BVR&MT – Trước xu thế và nhu cầu về sản xuất sạch, bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường, công tác quản lý vật tư nông nghiệp đang đứng trước rất nhiều thách thức. Việc liên kết chuỗi sản xuất và tiêu thụ là xu hướng tất yếu trong sản xuất hàng hóa, thị trường để đảm bảo có thể quản lý tốt việc sử dụng các loại thuốc BVTV (Bảo vệ thực vật), phân bón…

Toàn cảnh hội nghị.

Ngày 15/5, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị “Định hướng về công tác bảo vệ thực vật trong tình hình mới”.

Trải qua gần 60 năm hình thành phát triển, hệ thống ngành BVTV đã bảo vệ tốt năng suất cây trồng, ngăn chặn các dịch hại trên cây trồng, góp phần đưa nền nông nghiệp đất nước vốn thiếu lương thực trầm trọng trở thành quốc gia hàng đầu về xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp với tổng giá trị 36,2 tỷ USD năm 2017, riêng ngành trồng trọt chiếm tới hơn 20 tỷ USD về kim ngạch xuất khẩu.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, tình trạng lạm dụng thuốc BVTV thời gian qua làm tăng giá thành sản phẩm nông sản, tác động không nhỏ tới môi trường. Trước thách thức của biến đổi khí hậu, nguy cơ làm gia tăng dịch bệnh đối với cây trồng và những yêu cầu về chất lượng sản phẩm trồng trọt từ thị trường, đòi hỏi công tác BVTV phải có sự thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu hạn chế, khắc phục tình trạng lạm dụng thuốc BVTV, giảm giá thành sản phẩm, gia tăng chất lượng nông sản đồng thời bảo vệ tốt môi trường.

Để làm điều này, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trong thời gian tới ngành trồng trọt cần hướng tới giảm việc sử dụng phân bón hóa học, tăng sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học…

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Trong thời gian tới ngành trồng trọt cần hướng tới tăng sử dụng phân bón hữu cơ.

Theo ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục BVTV (Bộ NN&PTNT),trong thời gian qua, ngành BVTV cũng tập trung xây dựng các mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật, mô hình sản xuất thân thiện với môi trường để triển khai, nhân rộng đến nông dân. Tuy nhiên có một số yếu tố đã và đang phát sinh ảnh hưởng đến hoạt động của ngành BVTV, nhất là trong những năm gần đây biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng khắc nghiệt.

Ông Trung cũng cho biết, trước xu thế và nhu cầu về sản xuất sạch, bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường, công tác quản lý vật tư nông nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Cục đang đứng trước rất nhiều thách thức.

Thứ nhất là phải có một Danh mục thuốc BVTV thực sự hiệu quả, an toàn và thân thiện với môi trường. Để làm được điều này, nhiệm vụ trước mắt là phải quản lý chặt đầu vào khảo nghiệm và loại bỏ được các loại thuốc kém chất lượng, độc hại với con người và môi trường. Tuy nhiên cơ sở dữ liệu và các căn cứ khoa học liên quan đến vấn đề này còn thiếu rất nhiều. Vì vậy, việc loại bỏ thuốc BVTV ra khỏi danh mục gặp rất nhiều khó khăn.

Hơn nữa, số lượng thuốc BVTV trong danh mục hiện nay đang mất cân đối, chủ yếu là thuốc phòng trừ sâu bệnh trên cây lúa, các đối tượng cây trồng khác chưa được tập trung phát triển.

Thứ hai, số lượng nhà máy sản xuất (735 nhà máy) cũng như sản phẩm phân bón (gần 20.000 sản phẩm) đang rất lớn và mất cân đối, chủ yếu là phân bón vô cơ. Bên cạnh đó, hiện tại đang còn khoảng hơn 200 chỉ tiêu chất lượng bao gồm cả vi sinh và hóa lý đã được công bố trong các sản phẩm phân bón nhưng không có phương pháp thử được phê duyệt trong nước đã tạo ra áp lực không nhỏ cho công tác quản lý nhà nước.

Thứ ba, mặc dù thời gian gần đây đã có nhiều chuyển biến tích cực trong vấn đề sử dụng thuốc BVTV và phân bón nhưng việc lạm dụng thuốc BVTV hóa học và phân bón vô cơ của người dân vẫn đang rất đáng báo động. Điều này đã dẫn đến các nguy cơ về mất an toàn thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường, thoái hóa đất và đặc biệt là tình trạng kháng thuốc của sinh vật gây hại.

Để khắc phục tình trạng trên, ông Hoàng Trung cho rằng, việc liên kết chuỗi sản xuất và tiêu thụ là xu hướng tất yếu trong sản xuất hàng hóa, thị trường hóa sản xuất nông nghiệp để đảm bảo có thể quản lý tốt việc sử dụng các loại thuốc BVTV, phân bón nhằm đảm bảo yêu cầu về an toàn thực phẩm cho sản phẩm nội tiêu cũng như đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.

Liên kết sản xuất còn là yếu tố quan trọng để tổ chức thu gom bì thuốc BVTV sau sử dụng, không để gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các chuỗi liên kết cũng là tiền đề quan trọng để áp dụng các công nghệ 4.0 vào thực tế sản xuất.

Ngoài ra, theo ông Trung, cần tiếp tục rà soát,quản lý chặt chẽ vật tư nông nghiệp ở tất cả các khâu từ khảo nghiệm, đăng ký đến sử dụng. Kiên quyết hoàn thiện đủ các căn cứ khoa học để loại bỏ các loại vật tư nông nghiệp kém chất lượng, gây hại cho sức khỏe con người và môi trường ra khỏi Danh mục.

Về quản lý phân bón, ngành nông nghiệp phấn đấu đến năm 2021, tăng lượng phân bón hữu cơ sản xuất công nghiệp để sử dụng trong nước ít nhất là 3 triệu tấn/năm và xuất khẩu đạt 0,5 triệu tấn/năm; tăng tỉ lệ sản phẩm phân bón hữu cơ so với tổng số sản phẩm phân bón từ 5% hiện nay lên 10%.

Về quản lý thuốc BVTV, rút ngắn 30% số lượng tên thương phẩm trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam; tăng 30% lượng thuốc BVTV sinh học được đăng ký và sử dụng. Cùng với đó cần tiếp tục khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao, sản xuất, kinh doanh và ứng dụng biện pháp sinh học, phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học để phòng, chống sinh vật gây hại.

Bên cạnh đó, Cục Bảo vệ thực vật sẽ hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đồng thời rà soát, siết chặt hệ thống phòng thử nghiệm, tổ chức chứng nhận hợp quy để đảm bảo quản lý tốt chất lượng vật tư nông nghiệp…