Chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Lâm Đồng: Cải thiện sinh kế, nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng

BVR&MT – Chi trả dịch vụ môi trường rừng thực hiện tại Lâm Đồng được triển khai thí điểm năm 2009 theo Quyết định 380/QĐ-TTg Chính phủ được xem là một trong những chính sách đột phá trong bảo vệ và phát triển rừng.

Các hộ dân nhận khoán tham gia tuần tra cùng với chủ rừng.

Số tiền dịch vụ môi trường rừng thu được hàng năm của Lâm Đồng luôn nằm trong 3 tỉnh có số thu cao nhất cả nước và số nợ đọng hàng năm rất ít và hầu như không có. Với số tiền thu được, hàng năm Lâm Đồng chi trả cho hơn 74% diện tích rừng toàn tỉnh (400.000 ha/năm) với đơn giá tương đối cao, và gấp đôi đơn giá chi trả từ ngân sách cho phần diện tích không cung ứng (năm 2022 đơn giá chi trả 936.000 đồng/ha – 1.214.000 đồng/ha). Qua đó, góp phần quản lý, bảo vệ rừng hiệu quả hơn. Với mục đích và ý nghĩa của ban hành chi trả dịch vụ môi trường rừng là: Cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng, huy động các nguồn lực khác nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước để tăng cường đầu tư vào ngành lâm nghiệp, kết quả thực hiện chi trả trong gần 15 năm qua trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã phần nào chứng minh được mục đích và ý nghĩa này.

Theo thống kê của Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Lâm Đồng, tính đến năm 2022, tổng số tiền dịch vụ môi trường rừng thu được trên địa bàn tỉnh là 2.983 tỷ đồng (riêng năm 2022 thu được 437,9 tỷ đồng).

Nguồn thu đến chủ yếu từ các cơ sở sản xuất thủy điện (năm 2022: 50 cơ sở) với tỷ trọng thu chiếm hơn 95% tổng thu, một số nhà máy thủy điện như: Đa Nhim, Đại Ninh, Hàm Thuận, Đồng Nai 4, Trị An có số tiền nộp trên 35 tỷ đồng/đơn vị. Các cơ sở sản xuất và kinh doanh nước sạch hàng năm đóng góp 5% số thu và số thu từ các cơ sở sản xuất công nghiệp không đáng kể, riêng các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch từ năm 2020 chuyển sang hình thức chi trả trực tiếp.

Đặc thù tại tỉnh Lâm Đồng, hầu hết chủ rừng có diện tích rừng được chi trả tiền dịch vụ môi trường là chủ rừng Nhà nước, đối tượng này chiếm hơn 95% diện tích được chi trả, cùng với yếu tố lịch sử để lại và tình hình thực tế đời sống, tập quán canh tác bám vào rừng của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, các chủ rừng nhà nước đã khoán bảo vệ rừng hơn 90% diện tích này, với hơn 16.000 hộ và phần tự quản lý không đáng kể.

Một điểm chi trả tiền dịch vụ bảo vệ rừng bằng tiền mặt.

Từ việc nhận khoán bảo vệ rừng hằng năm, đã góp phần tạo sinh kế và nguồn thu nhập đáng kể cho các hộ nhận khoán bảo vệ rừng (từ 15 đến 20 triệu đồng/hộ/năm). Họ cũng chính là lực lượng quan trọng, hỗ trợ đắc lực cho các chủ rừng trong công tác bảo vệ rừng. Qua kết quả thực tế đã chứng minh rằng, chi trả dịch vụ môi trường rừng góp phần nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng.

Trong thời gian tới, việc thực hiện chi trả dịch vụ môi trường chắc chắn sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn, khi mà chi trả dịch vụ môi trường đã được quy định trong Luật Lâm nghiệp và qua quá trình thử nghiệm. Hiện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 156/2018/NĐ-CP trong đó có hướng dẫn thu tiền dịch vụ môi trường rừng đối với loại dịch vụ: hấp thụ và lưu trữ Cacbon của rừng – Nếu được thì nguồn thu sẽ tăng và người làm rừng sẽ hưởng lợi nhiều hơn, thể hiện rõ hơn hiệu quả của chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Ngoài ra, chi trả dịch vụ môi trường rừng góp phần giải quyết khó khăn về kinh phí hoạt động cho các chủ rừng nhà nước: nguồn thu từ tiền dịch vụ môi trường rừng của các chủ rừng nhà nước (từ 10% chi phí quản lý khoán bảo vệ rừng và một phần thu từ diện tích tự quản lý), đã góp phần giải quyết  khó khăn về nguồn kinh phí hoạt động cho các đơn vị trong điều kiện kinh phí được cấp còn hạn hẹp. Từ nguồn kinh phí này các chủ rừng chủ động hơn trong việc tổ chức lực lượng, hướng dẫn, đôn đốc và cùng với lực lượng nhận khoán tổ chức bảo vệ rừng có hiệu quả hơn. Có thể nói rằng, nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng tiếp tục được xem là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư cho công tác bảo vệ và phát triển vốn rừng hiện có của tỉnh Lâm Đồng gắn với nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa….

Cùng với Trung ương, tỉnh Lâm Đồng cũng đã xác định nguồn thu từ thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng là nguồn tài chính quan trọng ngoài ngân sách để đầu tư cho công tác bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh gắn với cải thiện đời sống cho người làm nghề rừng.

Lê Hồng