Cảnh sát Brazil đầu tư máy quang phổ xác định ĐVHD bị buôn bán trái phép

BVR&MT – Ở Brazil và nhiều quốc gia đa dạng sinh học trên thế giới, việc buôn bán thương mại một số loài động vật hoang dã (ĐVHD) được cho phép nếu đó là động vật nuôi và không bị bắt từ tự nhiên. Tuy nhiên, xác định nguồn gốc thực sự của ĐVHD luôn là thách thức đối với cơ quan chính phủ Brazil. Trong nhiều trường hợp, bằng chứng gian lận chỉ có thể được kiểm nghiệm thông qua phân tích trong phòng thí nghiệm nhưng hoạt động buôn bán ĐVHD hiếm khi được tiếp cận công nghệ này.

Tại bang Amazonas, lực lượng cảnh sát đầu tư lớn vào một thiết bị tiên tiến mà họ hy vọng sẽ giải quyết được nạn buôn lậu ĐVHD và các tội phạm môi trường khác. Tháng 1/2021, chi nhánh tiểu bang của Cảnh sát Liên bang Brazil đã sử dụng một máy quang phổ để đo khối lượng tỷ lệ đồng vị nhằm phát hiện các trường hợp ĐVHD bị săn bắt trong tự nhiên trước khi được tuồn vào trang trại nuôi nhốt để hợp thức hóa việc buôn lậu.

Chi phí mua máy không hề rẻ. Cảnh sát Liên bang Amazonas đã đầu tư 2,6 triệu renais (514.000 USD) cho thiết bị và cơ sở hạ tầng phòng thí nghiệm, tuy nhiên, 2,5 triệu reais (494.000 USD) trong số này đến từ chính các khoản xử phạt vi phạm môi trường, phần còn lại từ ngân sách cảnh sát.

“Chúng tôi là lực lượng cảnh sát Brazil đầu tiên áp dụng công nghệ này”, Alexandre Silva Saraiva, sĩ quan cảnh sát khu vực cho biết. Saraiva cho rằng khoản chi phí trên là hợp lý bởi công nghệ phân tích chất đồng vị ổn định rất linh hoạt, có thể áp dụng trong nhiều trường hợp và theo dõi ĐVHD chỉ là một trong số đó. Ngoài ra, còn có thể ứng dụng trong việc xác định gỗ được khai thác và buôn bán bất hợp pháp, khai thác vàng và khoáng sản trái phép, truy tìm nguồn gốc của các chất cấm như ma túy.

Kỹ thuật viên phòng thí nghiệm sử dụng máy đo quang phổ để phân tích các đồng vị ổn định trong các mẫu ĐVHD (Ảnh: Cảnh sát Liên bang Amazonas)

Xác định nguồn gốc động vật

Phân tích đồng vị ổn định dựa trên cơ sở các nguyên tố hóa học có thể có số lượng nơtron khác nhau trong hạt nhân của chúng. Các biến thể khác nhau của cùng một nguyên tố được gọi là đồng vị và những biến thể không suy giảm theo thời gian (tức mất một hoặc hai nơtron) được gọi là đồng vị ổn định. Tỉ lệ các đồng vị ổn định khác nhau tùy theo từng khu vực, vì vậy việc tìm kiếm một tỉ lệ nhất định trong thức ăn mà động vật ăn vào hoặc từ lông của chúng sẽ tương đương với một mã vạch có thể chỉ ra nó đến từ đâu.

“Chúng tôi có thể phân tích móng vuốt và lông của động vật có vú, được cấu tạo từ keratin, lần lượt bao gồm carbon, nitơ, oxy và hydro”, Gabriela Bielefeld Nardotto, nhà sinh vật học và Giáo sư Khoa Sinh thái tại Đại học Brasilia cho biết. Tỷ lệ đồng vị ổn định của những nguyên tố trong keratin của động vật sẽ giống như trong thực phẩm chúng ăn và nước chúng uống tại nơi chúng sinh sống. Về cơ bản, công nghệ được Cảnh sát Liên bang Amazonas áp dụng giúp xác định nguồn gốc địa lý của động vật.

“Việc kiểm tra này cho phép chúng tôi so sánh các đồng vị trong mẫu thu được từ động vật bị bắt với thức ăn hoặc nguồn nước mà người chăn nuôi cung cấp cho chúng. Nếu tỷ lệ đồng vị không khớp có nghĩa là có hoạt động bất hợp pháp và lực lượng cảnh sát có thể tiến hành điều tra”, ông Saraiva cho biết.

Cũng theo Saraiva, công cụ này giúp phát hiện các trường hợp ĐVHD bị “rửa” tại các trang trại nuôi nhốt, nơi mà các chủ nuôi hoặc dân buôn thường bắt động vật trong tự nhiên rồi đưa chúng vào trang trại và bán chúng như thể chúng được nuôi nhốt thật.

Tuy nhiên, động vật nuôi đa phần ăn thức ăn công nghiệp, do đó tỷ lệ đồng vị sẽ khác hoàn toàn so với những động vật sinh ra và lớn lên trong tự nhiên. Ngay cả trường hợp ĐVHD bị bắt và bị nuôi nhốt trong thời gian dài, ăn thức ăn và sống cùng môi trường như những động vật được sinh ra tại trang trại thì công nghệ này vẫn có thể phát hiện được sự đánh tráo bởi đơn cử như ở động vật có vú, tỷ lệ đồng vị ổn định trong răng được thiết lập ngay sau khi sinh hoặc trong những năm đầu đời và vẫn cố định.

Trong trường hợp các loài chim, tình hình có phức tạp hơn vì tỷ lệ đồng vị của lông tương quan với các đặc điểm của vùng mà động vật đã ở khi lông được hình thành. “Đây là lý do tại sao chúng ta phải xem xét tốc độ thay mới của các mô được sử dụng làm mẫu trong cuộc điều tra”, Nardotto cho biết, đề cập đến tần suất các loài chim rụng lông cũ và mọc lông mới. Một khi tốc độ thay mới được biết, chúng ta có thể suy ra tuổi của mô và vùng địa lý của động vật.

Máy quang phổ được Cảnh sát Liên Bang Amazonas sử dụng sẽ giúp điều tra trong buôn bán rùa Arrau (Podocnemis expansa), rùa sông đốm vàng (Podocnemis unifilis), cá hải tượng long (Arapaima gigas) và cá sấu.

Công nghệ mới sẽ giúp truy tìm nguồn gốc của rùa Arrau, một trong những loài bị buôn bán nhiều nhất ở miền Bắc Brazil (Ảnh: Camila Ferrare)

Trả lại động vật về nơi chúng bị bắt giữ

Rafael Leite, chuyên gia Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã (WCS) Brazil cho rằng việc Cảnh sát Liên bang Amazonas đầu tư công nghệ tiên tiến là rất đáng ghi nhận và tất cả các cơ quan giám sát trong bang nên mạnh dạn thử nghiệm công nghệ này hoặc ít nhất là có quyền truy cập vào hệ thống đó.

Saraiva cho biết Cảnh sát Liên bang có đủ nguồn lực để thực hiện các cuộc kiểm tra trên quy mô lớn. Trong trường hợp liên quan đến ĐVHD, kết quả có thể có trong 48 giờ. “Cảnh sát Liên bang thậm chí sẵn sàng làm việc với các cơ quan chính phủ khác để tối ưu hóa việc sử dụng phòng thí nghiệm và thiết bị nhiều nhất có thể”, ông nhấn mạnh.

Camila Ferrara, chuyên gia về rùa của WCS Brazil cho rằng điều quan trọng trong phân tích dựa trên kiểm tra đồng vị ổn định là cố gắng xác định nguồn gốc động vật bị bắt giữ. Điều này cho phép xác định chính xác vị trí tái thả động vật, đưa chúng trở lại đúng nơi đã bị bắt. Muốn vậy, cần thu thập, đối chiếu các mẫu đồng vị và thiết lập cơ sở dữ liệu về vị trí thu giữ động vật.

Theo Juliana Machado Ferreira, Giám đốc điều hành tổ chức phi chính phủ Freeland Brasil, phân tích đồng vị ổn định và xét nghiệm ADN là những phương tiện hiệu quả nhất để điều tra hành vi trái phép tại các trang trại nuôi nhốt và đảm bảo động vật được trả lại nơi chúng bị bắt. Ngoài ra, phương pháp này còn giúp xác định địa điểm những kẻ buôn lậu thường lợi dụng để bắt giữ động vật, qua đó có thể định hướng các nguồn lực đấu tranh chống tội phạm.

Liên quan đến ứng dụng đo khối lượng tỷ lệ đồng vị ổn định nhằm phát hiện gỗ lậu, phía cảnh sát Amazonas, cụ thể là sĩ quan Saraiva đã gửi một báo cáo tội phạm lên Tòa án tối cao chống lại một số quan chức chính phủ. Tuy nhiên, ngày 20/4, Saraiva đã bị cách chức vì việc này. Trong báo cáo của mình, Saraiva cáo buộc Bộ trưởng Môi trường Ricardo Salles và Thượng nghĩ sĩ Telmário Mota can thiệp vào cuộc điều tra của cảnh sát về vụ buôn bán gỗ cứng nhiệt đới lớn nhất Brazil tại bang lân cận là Pará. Bộ trưởng Salles đã trở thành đối tượng của hai cuộc điều tra, một của Cảnh sát Liên bang, một của Tòa án về những cáo buộc từ Saraiva.

Được biết, sự can thiệp của vị bộ trưởng dưới dạng các tuyên bố mà vị này đưa ra để ủng hộ những kẻ buôn lậu bị cáo buộc. Sau khi thị sát các khúc gỗ bị thu giữ, Salles khẳng định trên mạng xã hội rằng mình đã kiểm tra và kết luận nó không có nguồn gốc bất hợp pháp, điều này đồng nghĩa với việc phản bác lại cáo buộc từ kết quả phòng thí nghiệm của Saraiva.

Thông tin mới nhất cho hay ông Salles đã thông báo từ chức từ 23/6 sau hơn một tháng Tòa án Tối cao Brazil yêu cầu mở cuộc điều tra về sự liên đới của ông cùng 10 quan chức hàng đầu của bộ trong việc hỗ trợ khai thác, vận chuyển trái phép gỗ sang Mỹ và châu Âu. Ngoài ông Salles, những người này cũng bị chính quyền Brazil đình chỉ công tác.

Phương Nga (Theo Mongabay)