‘Biến đổi khí hậu có thể khiến 1 triệu người Việt nghèo vào năm 2030’

BVR&MT – Theo WB, trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, nếu Việt Nam không có các biện pháp thích ứng phù hợp, kịp thời, khoảng một triệu người dân sẽ rơi vào tình trạng nghèo khó…

Phát triển năng lượng tái tạo (điện gió) theo hướng bền vững. (Nguồn ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Với hơn 3.200 km đường bờ biển, nhiều thành phố có địa hình trũng thấp, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu. Nếu không có các biện pháp phù hợp, ước tính, Việt Nam sẽ mất khoảng 12-14,5% Gước DP mỗi năm vào năm 2050 và có thể khiến khoảng một triệu người ‘rơi’ vào tình trạng nghèo cùng cực vào năm 2030.

Đó là thông tin đáng chú ý trong Báo cáo Quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam, vừa được World Bank Vietnam công bố chiều 14/7.

Trả “giá đắt” vì biến đổi khí hậu

Đại diện Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho biết từ vị thế là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới vươn lên thành một thị trường mới nổi năng động, Việt Nam đang phải đối mặt với những rủi ro ngày một nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, đe dọa mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.

Đáng chú ý là sự gia tăng lượng phát thải khí nhà kính. Tuy không đóng góp nhiều vào khí nhà kính toàn cầu với tỷ trọng chỉ 0,8% lượng phát thải của thế giới, nhưng chỉ trong 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã nổi lên là một trong những quốc gia có lượng phát thải khí nhà kính bình quân đầu người tăng nhanh nhất trên thế giới.

Theo WB, trong giai đoạn 2000-2015, khi tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người tăng từ 390 USD lên 2.000 USD, thì lượng khí thải carbon dioxide (CO2) cũng tăng gần gấp 4 lần. Trong đó, phát thải khí nhà kính của Việt Nam gắn liền với tình trạng ô nhiễm không khí có hại cho sức khỏe con người và năng suất lao động tại nhiều thành phố, đặc biệt là Hà Nội.

Ngoài ra, với hơn 3.200 km bờ đường biển trải dài từ Bắc vào Nam, nhiều thành phố có địa hình trũng thấp và các vùng đồng bằng ven sông, Việt Nam vẫn đang là một trong các quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu.

Các tác động của biến đổi khí hậu – chủ yếu là nhiệt độ và mực nước biển dâng cao hơn và biến động lớn hơn. Thực tế này đã và đang làm gián đoạn hoạt động kinh tế và suy yếu tăng trưởng. Các tính toán ban đầu cho thấy Việt Nam mất 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP do tác động của biến đổi khí hậu.

Đáng chú ý, nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm thiểu, ước tính biến đổi khí hậu sẽ khiến Việt Nam mất khoảng 12-14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050 và có thể khiến tới một triệu người vào tình trạng nghèo cùng cực vào năm 2030.

Thiệt hại cũng có sự khác nhau giữa các vùng. Trong đó, ở miền Bắc, nhiệt độ tăng cao có thể làm giảm năng suất do căng thẳng nhiệt và giảm tuổi thọ sinh trưởng của cây trồng, với tình trạng thiếu nước nghiêm trọng làm giảm sản lượng hàng năm. Trong khi đó, ở miền Trung, các khu vực và thành phố ven biển nguy cơ cao sẽ phải hứng chịu ngày càng nhiều lũ lụt do bão nhiệt đới.

Còn ở miền Nam, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn – khu vực nổi danh với “vựa lúa số 1 Việt Nam” sẽ phải chịu nhiều rủi ro do mực nước biển dâng cao. Dự báo, gần một nửa vùng đồng bằng này sẽ bị ngập nếu mực nước biển dâng cao 75-100 cm (trên mức trung bình trong giai đoạn 1980-1999), qua đó sẽ đe dọa thiệt hại kinh tế do độ mặn gia tăng và không thể sản xuất một số loại cây trồng.

Cần lộ trình “khử” carbon, chuyển dịch năng lượng

Để đối phó với những xu hướng biến đổi khí hậu trong tương lai, đặc biệt là thực hiện lộ trình phát triển thích ứng với khí hậu và phát thải ròng bằng “0” trong thời gian tới, theo World Bank, dự kiến Việt Nam sẽ cần đầu tư thêm khoảng 6,8% GDP, tương đương 368 tỷ USD, từ nay đến năm 2040 vào cơ sở hạ tầng, công nghệ mới và các chương trình xã hội.

Trên cơ sở đó, World Bank khuyến nghị Việt Nam cần có lộ trình xây dựng khả năng thích ứng phù hợp để bảo vệ tài sản, cơ sở hạ tầng và con người của đất nước. Các biện pháp thích ứng cần tập trung vào những lĩnh vực và địa điểm dễ bị tổn thương nhất của đất nước, đặc biệt là nông nghiệp, giao thông, thương mại và công nghiệp, các vùng ven biển và Đồng bằng sông Cửu Long.

Mặt khác, Việt Nam có thể áp dụng các cải cách chính sách bổ trợ trong lĩnh vực tài khóa và tài chính có thể kích thích đầu tư từ cả khu vực công và khu vực tư nhân với tổng nhu cầu tài chính khoảng 254 tỷ USD từ năm 2022 đến năm 2040.

Tiếp đó là Việt Nam cần có lộ trình “khử” carbon, tiến tới mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng “0” vào năm 2050. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là Việt Nam cần kết hợp chuyển đổi mạnh mẽ hơn sang năng lượng tái tạo với các giải pháp trong lĩnh vực giao thông, nông nghiệp và công nghiệp; cải thiện hệ thống giao thông công cộng và áp dụng khắt khe đối với các phương tiện xe cơ giới,…

Thứ ba là tài trợ cho quá trình chuyển đổi, huy động tài chính trong nước và tìm kiếm hỗ trợ từ bên ngoài. Trong đó, nguồn vốn tư nhân tương đương khoảng 3,4% GDP mỗi năm có thể được huy động thông qua tín dụng xanh từ các ngân hàng, cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh, cũng như áp dụng các công cụ giảm thiểu rủi ro.

Ngoài ra, World Bank cũng lưu ý tới 5 gói chính sách chính mà Việt Nam cần chú ý, can thiệp ngay như: Một chương trình cấp vùng có điều phối cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; một chương trình đầu tư tăng khả năng chống chịu ven biển tích hợp cho các trung tâm đô thị chính và cơ sở hạ tầng kết nối.

Các gói chính sách ưu tiên tiếp theo là chương trình giảm thiểu ô nhiễm không khí có mục tiêu ở Hà Nội nhằm đạt được mục tiêu giữa kỳ của WHO vào năm 2030 và nâng cao năng suất lao động; tăng tốc quá trình chuyển dịch năng lượng sạch. Cuối cùng là một “khế ước xã hội” mới để bảo vệ các đối tượng dễ bị tổn thương nhất./.