BVR&MT – Phần lớn đất đai cha ông để lại của nhiều hộ gia đình ở Sơn La đã góp vào Công ty cao su, đây được coi đó là cổ phần để chia lợi ích. Tuy nhiên, sau 10 năm tham gia góp đất lợi ích mà người dân thu được vẫn chỉ trên lời nói hoặc với số tiền quá ít ỏi so với những gì mà họ đã kỳ vọng, từ đó kéo theo bao nỗi niềm trăn trở về cuộc sống của chính mình và tương lai con cháu.
Mòn mỏi cây cao su trên đất Sơn La – Bài 1: Vì sao người dân Mường Bon đòi lại đất?
“Không ngờ đời mình có ngày buồn đến vậy!”
Sau nhiều cuộc điện thoại và chờ đợi cả buổi sáng, đúng 12h trưa chúng tôi nghe thấy tiếng lạch cạch lao gỗ xuống vách núi dựng đứng ở bản Lạnh B, ông Chương trở về sau một buổi đi làm nương với một khúc củi lớn trên vai. Đây là công việc thường ngày của ông.
Có lẽ ông Lường Văn Chương, “đương kim” trưởng bản Lạnh B, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La chẳng bao giờ nghĩ đến viễn cảnh ngày hôm nay. Sau 24 năm đảm nhiệm chức trưởng bản lại cảm thấy “cuộc đời mình có lúc buồn đến vậy”, mỗi ngày trôi qua dài đằng đẵng, dai dẳng như…cao su vậy.
Trở lại “lịch sử” cách đây khoảng 10 năm, khi thực hiện chính sách, chủ trương trồng cây cao su theo cách “đã vào quy hoạch”, ông Chương đã góp 1,6ha đất canh tác ngô, sắn hàng năm của mình với thu nhập khoảng 20 triệu/ năm để trồng cao su.
Khi ấy ông cùng 147 hộ dân khác được điền tên vào danh sách những hộ góp đất, hộ góp nhiều lên đến 7 ha, hộ ít thì vài trăm mét vuông. Với những hộ góp đất từ 1 ha trở lên sẽ có một “suất” làm công nhân cho Công ty Cổ phần Cao su Sơn La (Công ty Cao su). Và lẽ đương nhiên với 1,6 ha đất góp gia đình ông Chương có một người được nhận vào làm công nhân.
Từ khi góp đất, nguồn thu nhập chính của gia đình phụ thuộc vào đồng lương công nhân theo thời vụ ít ỏi. Khi có việc mới có lương, cuộc sống trở nên khó khăn, không có nguồn thu nhập nào khác, buộc ông Chương phải lên núi khai hoang. Đứng ở nhà ông nhìn lên triền núi thấy những đám khói bay ngang như những đám mây lơ lửng giữa bầu trời. Hỏi ra mới biết đó là nơi ông vừa đốt cây cỏ dại để canh tác.
Chỉ tay về phía vách đá dựng đứng cao gấp nhiều lần nóc nhà mình, ông Chương kể: “Mình phải bắc thang trèo qua vách đá dựng đứng kia mất khoảng 5 phút đầy hiểm ngủy, sau đó đi bộ 30 phút nữa mới đến nương, nếu đi xe máy phải vòng khoảng 5km đường gập ghềnh”.
Vượt qua bao hiểm nguy để đến được nơi kiếm kế sinh nhai, lúc này ông mới nghĩ đến việc: “Nếu có chỗ đất 1,6 ha trước kia chưa góp đất trồng cao su mình trống sắn, ngô, cà phê, cây ăn quả thì cuộc sống sẽ không vất vả như bây giờ”.
Khi trò chuyện với vị trưởng bản kỳ cựu, khuôn mặt ông lúc nào cũng buồn, đôi mắt đăm chiêu, suy nghĩ: “Nếu cứ để cao su thì tương lai không đủ sống do thu hoạch kém quá. Vì trong vòng hai năm cạo mủ với 6.300 m2 họ (Công ty Cao su) chia cổ phần được có 1 triệu, nếu trồng ngô sắn giá được cao hơn, giờ nhiều hộ dân muốn đòi lại đất thì khó lắm, nhà mình ký hợp đồng rồi. Ở bản nhiều hộ đã ký và đã đưa hợp đồng cho Công ty Cao su ra xã đóng dấu nhưng chưa thấy đưa lại”.
Trăn trở trước nỗi lo cuộc sống
Được biết, theo chủ trương của nhà nước hộ có đất ít góp ít và ngược lại, “mình được vận động góp đất, có sản phẩm ra thì sẽ chia theo sản phẩm, bên góp đất được 10%. Nhà nào có từ 1ha đất trở lên sẽ được nhận một công nhân vào làm việc. Ngày xưa bà con tham gia làm công nhân nhiều nhưng sau đó ngày có việc, ngày không có việc, thu nhập không đều nên bà con nghỉ gần hết. Hiện tại cây cao su phát triển bình thường, đất tốt được cạo mủ, đất xấu thì chưa” – ông Chương nói.
Rồi ông đưa ra hợp đồng góp QSDĐ để hợp tác trồng cao su và cho biết huyện, tỉnh, trước đây vận động và cho biết: “Đây là vùng quy hoạch trồng cao su, theo chủ trương lớn của nhà nước, nếu không trồng cán bộ bị chỉ trích, kiểm điểm, có phản đối vẫn phải trồng theo quy hoạch”.
“Chục năm nay có được gì đâu, chỉ năm hết tết đến có ít quà tết cho bà con góp đất. Một số chưa cạo mủ vì cây nhỏ do không chăm sóc tốt, bà con ít việc làm. Cả ba bản có 147 hộ tham gia trồng trên 69 ha, ban đầu tham gia góp đất hộ dân chưa làm làm hợp đồng, gần đây mới làm cũng có hộ chưa nhất trí ký, dất trước đây chưa có sổ, giờ bảo làm sổ rồi”, vị trưởng bản Lạnh B nói
Trước khi chia tay chúng tôi ông Chương ngồi ở hiên nhà, hướng ánh mắt nhìn xa xăm, buồn bã chia sẻ: “Tôi có con trai và con dâu không có việc làm nên giờ đi Hà Nội làm thuê, để hai cháu ở nhà. Không biết tương lai các cháu sẽ ra sao. Rồi còn bà con làng bản nữa, giờ bà con rất buồn, không có đất sản xuất nên đi làm thuê, trước đây có gần 60 người làm công nhân cao su giờ chỉ còn có 7 người”.
Không chỉ hộ ông Chương, ở Lạnh B còn có vợ chồng Lò Văn Thuận, vợ Lò Thị Đỉnh góp 3.000 m2, nhưng đến nay cao su trên đất của gia đình trồng từ năm 2008 vẫn chưa khai thác được. “Cao su thu nhập không tốt. Trước còn bảo khi nào có nhựa, có mủ thì được chia cổ phần. Nhưng giờ 10, 11 năm rồi mà chả thấy cái cổ phần đâu” – anh Thuận nói.
“Còn đất trồng cà phê thì đều đất trong nương có đá nhiều, đất đấy họ không lấy để trồng cao su. Trước đây xã cũng đến vận động, có nhà không nhất trí làm đâu, nhưng xã với bản bảo bây giờ hai bên đều trồng cao su, mình ở giữa mình không góp thì trồng cây gì mà ăn được. Trồng 10 năm rồi, giờ thiếu ăn, nương rẫy thì ít. Cuộc sống khó khăn, nhưng cây cao su mà có kết quả thì dân cũng không bỏ đâu” – ông Thuận buồn rầu chia sẻ.
Ông Thuận cho biết thêm: “Trồng cao su từ khi con gái tôi lấy chồng, mà bây giờ con của nó học lớp 5, 6 đấy vẫn chưa thấy cao su có được cái gì. Cuối năm thì công ty cho 2 hộp bánh, một chai dầu ăn, một chai nước mắm”.
Không giấu nổi nỗi niềm, bà Đỉnh nói xen vào câu chuyện giữa phóng viên và chồng mình: “Nhà tôi có thằng con đi làm công nhân được độ 6-7 năm. Lương không phải tháng nào cũng đều nhau đâu, mà nó (công ty cao su) tính ngày công ấy, làm mỗi ngày ví dụ đi phát cỏ cứ 120 cây thì được 1 công, 50-60 nghìn, công bón phân thì cao hơn một tí. Nếu mà làm cà phê từ ngày đấy thì bây giờ được bao nhiêu tiền rồi”.
Được biết, thiếu đất canh tác làm hộ thay đổi sinh kế. Nhiều hộ dân so sánh mỗi ha đất trồng sắn hoặc ngô, mỗi vụ hộ cũng thu được 20-30 triệu. Trồng cao su, nên nhiều năm qua mất nguồn thu này vì lương công nhân không được là bao. Chính điều đó là nguyên nhân khiến hiều thành viên trẻ của nhiều hộ đã phải đi tìm việc ở ngoài cộng đồng, đặc biệt là đi làm thuê bên ngoài, để con cái ở nhà với ông bà và đi làm thuê nhằm mưu sinh.
Đem những trăn trở của bà con đến trao đổi với ông Hồ Anh Đức – TGĐ Công ty Cao su Sơn La – ông nói: “Hợp đồng ký kiến thiết cơ bản là 8 năm. Hợp đồng có sự thống nhất giữa Tập đoàn, tổng công ty, các ban ngành của tỉnh và người dân. Cộng với 20 – 22 năm khai thác. Tổng là 30 năm. Cây cao su trồng đến năm thứ 9 mới khai thác. Khai thác xong sẽ có tận thu thanh lý gỗ cao su.
Năm 2007 tập đoàn đầu tư, toàn bộ vùng hiện nay trồng cao su đều là đất hoang không trồng được bất cứ cây gì, cũng không có rừng, thì tỉnh và tập đoàn có hướng là phát triển cây cao su, tạo công ăn việc làm, thu nhập ổn định.
Hiện tại cuối kỳ kiến thiết, cây khép tán, công chăm sóc ít, dân thấy thu nhập ít hơn một chút nên thắc mắc. Vì những lúc đầu khai hoang, trồng mới, đào hố, chăm sóc, rất nhiều công, thu nhập rất ổn định 10-12 triệu/lao động/tháng. Hiện nay thu nhập từ cây ăn quả bước đầu cao hơn cao su, các hộ dân đang so sánh giữa cao su và cây ăn quả khác”.
Còn ông Trần Hữu Hùng, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Thuận Châu – chia sẻ: “Giờ giá cao su thấp nên bà con buồn, lúc trồng là giá mủ cao su hơn 100 triệu/tấn, giờ chỉ còn có 30 triệu/ tấn. Bà con suốt ngày kêu tôi góp đất trồng cao su mà mây giờ sản lượng ít quá, giá lại thấp. Bây giờ toàn huyện bà con ký hợp đồng đến 90%. Nên những mất mát cũng như mong muốn của bà con rất khó giải quyết, bà con bỏ cũng không bỏ nổi, vì 10 năm rồi, mà cây cao su – tài sản lại là của công ty, nó là chủ trương lớn không bỏ được”.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin.
Văn Hoàng – Hoàng Tôn