BVR&MT – Ngày 17/3, Chi Cục Kiểm lâm Bắc Kạn đã có công văn phản hồi, cung cấp thêm thông tin phản ánh tại bài viết “Nguy cơ rừng bị phá do thiếu kinh phí khoán bảo vệ” đăng trên Báo Nhân Dân ngày 12/2/2022.
Tại văn bản, Chi Cục Kiểm lâm Bắc Kạn thông tin, hiện tại, toàn tỉnh Bắc Kạn có hơn 417.000 ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp, chiếm 86% diện tích tự nhiên. Trong đó, đất có rừng là hơn 356.000 ha. Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh chiếm hơn 56% tổng diện tích tự nhiên, trong khi tỷ lệ này của cả nước chỉ là 31%. Nhiều hộ dân sống trong, gần các khu rừng có diện tích đất canh tác ổn định rất thấp, không bảo đảm đời sống và phát triển kinh tế.
Trong năm 2021, các lực lượng chức năng đã xử lý 433 vụ vi phạm trong lĩnh vực lâm nghiệp, giảm 38 vụ so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, phát hiện 210 vụ phá rừng trái pháp luật với tổng diện tích thiệt hại hơn 66 ha, tăng 53 vụ.
Trong năm 2022, tính đến ngày 15/3, các lực lượng chức năng đã xử lý 127 vụ vi phạm trong lĩnh vực lâm nghiệp, giảm 5 vụ so với cùng kỳ năm 2021. Tuy nhiên, trong đó, có 90 vụ phá rừng trái pháp luật, diện tích thiệt hại hơn 21 ha, tăng 25 vụ.
Các vụ việc đều được kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn sớm với diện tích thiệt hại mỗi vụ nhỏ. Lâm sản thiệt hại chủ yếu là vầu, nứa, gỗ nhỏ. Trong đó, phát, phá rừng chiếm trên 90% diện tích thiệt hại. Mục đích phá rừng là để lấy đất sản xuất. Mặc dù đã có nhiều giải pháp chỉ đạo quyết liệt, nhưng tình trạng phá rừng trái phép vẫn tăng.
Với quy định đóng cửa rừng và các chính sách hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên hiện hành, tỉnh Bắc Kạn có diện tích rừng thuộc đối tượng giao khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rất lớn. Tuy nhiên, kinh phí thực hiện chưa được bố trí đầy đủ đã ảnh hưởng đến tâm lý, quyền lợi của người được giao khoán bảo vệ.
Từ năm 2021, tỉnh Bắc Kạn đã tổng hợp, báo cáo, đề xuất Trung ương về nhu cầu thực hiện các chính sách bảo vệ rừng. Theo đó, đối với bảo vệ rừng phòng hộ, sản xuất tại khu vực II và III có diện tích bình quân mỗi năm gần 70.000 ha, nhu cầu kinh phí hơn 27 tỷ đồng/năm. Khu vực ngoài khu vực II và khu vực III bình quân diện tích mỗi năm gần 16.000 ha, nhu cầu kinh phí hơn 4,7 tỷ đồng/năm.
Đối với hỗ trợ bảo vệ rừng, theo Quyết định 24/2012/QĐ-TTg, diện tích bình quân mỗi năm gần 30.000 ha, nhu cầu kinh phí gần 3 tỷ đồng/năm. Hỗ trợ phát triển cho 99 cộng đồng dân cư vùng đệm các khu rừng gần 4 tỷ đồng/năm. Hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên là rừng tự nhiên sản xuất của các công ty nông, lâm nghiệp bình quân mỗi năm 6.000 ha, nhu cầu kinh phí là 1,2 tỷ đồng/năm.
Hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên đã giao tại khu vực II và khu vực III bình quân mỗi năm gần 120.000 ha, nhu cầu kinh phí hơn 47 tỷ đồng/năm. Hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên đã giao tại khu vực ngoài khu vực II và khu vực III bình quân mỗi năm hơn 26.000 ha, nhu cầu kinh phí gần 8 tỷ đồng/năm. Đối với khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên, Bắc Kạn có hơn 10.000 ha, nhu cầu kinh phí hơn 5 tỷ đồng/năm.
Như vậy, tổng nhu cầu kinh phí hằng năm để bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh của Bắc Kạn lên tới hơn 101 tỷ đồng. Tuy nhiên, các chính sách mới chỉ bố trí được một phần nhỏ trong tổng số kinh phí này hằng năm.
Năm 2021 và 2022, tỉnh đã bố trí đủ kinh phí thực hiện hỗ trợ bảo vệ gần 30.000 ha rừng đặc dụng và hỗ trợ 96 cộng đồng dân cư vùng đệm các khu rừng đặc dụng theo Quyết định 24/2012/QĐ-TTg.
Năm 2021, Bắc Kạn tiếp tục thực hiện giao khoán bảo vệ rừng tự nhiên phòng hộ, sản xuất chuyển tiếp từ năm 2020 là hơn 75.000 ha. Tuy nhiên, hiện nay tỉnh mới chỉ bố trí được kinh phí để chi trả tiền nhân công giao khoán bảo vệ rừng đối với diện tích chuyển tiếp thuộc các xã khu vực I với tổng diện tích gần 8.000 ha, chiếm hơn 10% diện tích đã có hồ sơ chuyển tiếp và chỉ chiếm hơn 3% so với nhu cầu khoán bảo vệ.
Những diện tích giao khoán tại các xã khu vực II và khu vực III là những khu vực khó khăn, rộng, giàu trữ lượng, nguy cơ bị xâm hại cao nhưng hiện nay tỉnh chưa bố trí được kinh phí. Năm 2022, tỉnh chưa có kinh phí thực hiện giao khoán, hỗ trợ bảo vệ rừng.
Theo Chi Cục Kiểm lâm Bắc Kạn, nếu được Nhà nước đáp ứng đủ nguồn lực để thực hiện giao khoán bảo vệ rừng tự nhiên sẽ góp phần quan trọng nâng cao đời sống, ý thức bảo vệ rừng của người dân địa phương và giảm áp lực tiêu cực đến tài nguyên rừng.