Tổng kết Chương trình khoa học công nghệ phục vụ xây dựng Nông thôn mới

BVR&MT – Sáng ngày 6/8 tại tỉnh Vĩnh Phúc, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia đã chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình Khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 và việc thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn 2016- 2020.

Ảnh minh họa.

Đây là một trong 4 hội nghị quan trọng của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trong năm 2018 cùng với 3 hội nghị đã được tổ chức trước đó về xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu (ở Hà Tĩnh), triển khai chương trình mỗi xã một sản phẩm (ở Bắc Giang) và xây dựng thôn, bản nông thôn mới ở các xã khó khăn (tại tỉnh Điện Biên).

Cùng tham dự còn có Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo, lãnh đạo của các bộ, ngành, lãnh đạo tỉnh ủy, UBND của 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.

Đầu năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới (Chương trình) tại Quyết định số số 27/QĐ-TTg với tổng kinh phí cấp từ ngân sách Nhà nước là 221 tỷ đồng. Nhờ thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia các đề tài, dự án, Chương trình đã huy động được kinh phí đóng góp của các doanh nghiệp 165 tỷ đồng, chiếm 43% tổng kinh phí thực hiện Chương trình (386 tỷ đồng).

Theo Bộ NN&PTNT, Chương trình triển khai chậm chạp trong những năm đầu vì vướng nhiều khó khăn trong thủ tục hành chính, giải ngân vốn nhưng đã nỗ lực triển khai được 69 đề tài, dự án. Các nhiệm vụ đều bám sát các mục tiêu và 6 nhóm nội dung được giao tại Quyết định 27/QĐ-TTg và nhu cầu cấp bách của xây dựng nông thôn mới ở các địa phương như hoàn thiện cơ sở lý luận của mô hình nông thôn mới, các cơ chế, chính sách, giải pháp khoa học công nghệ để xây dựng nông thôn mới…

Bộ NN&PTNT đánh giá Chương trình đã đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu được giao, đóng góp thiết thực cả về cơ sở lý luận, cơ chế, chính sách và chuyển giao ứng dụng có hiệu quả.

Chương trình đã nghiên cứu mô hình, chuyển giao và thực hiện được khoảng 150 mô hình trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực trồng trọt, từ kết quả ứng dụng thiết bị kỹ thuật vào sản xuất của các đề tài, dự án, có thể đánh giá: Thủy lợi đóng góp 35-40%; khâu giống đóng góp 25-30%; phân bón và các biện pháp kỹ thuật khác đóng góp 25-30% vào tổng năng suất tăng thêm trong lĩnh vực trồng trọt.

Cụ thể, các mô hình thủy lợi đã góp phần làm gia tăng mực nước ngầm trong đồi cát từ 2,5-4,0 m phục vụ nước tưới và nước sinh hoạt; giảm giá thành đầu tư, nâng cao hiệu quả khai thác công trình nước sạch, thủy lợi nội đồng; tiết kiệm nước tưới 20-30%, đồng thời tăng năng suất cây trồng trên 10%; giúp nhiều địa phương chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp tăng hiệu quả 5-7 lần; cải thiện điều kiện môi trường, bảo vệ đất chống bạc màu, xói mòn, giảm phát thải 1,5 tấn CO2 /vụ/ha lúa, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu.

Về ứng dụng năng lượng tái tạo: Các mô hình có ý nghĩa lớn khi được thực hiện ở vùng ven biển và hải đảo (Quảng Ngãi, Nam Định), ứng dụng năng lượng mặt trời để lọc nước biển, nước lợ thành nước ngọt sinh hoạt. Đã chế tạo được 200 bộ thiết bị, giảm chi phí 15-20% so với thiết bị nhập ngoại. Đáp ứng nhu cầu nước sạch cho 70-90 hộ dân tại Giao Thủy và 800-1.000 học sinh và giáo viên ở đảo Lý Sơn…

Đặc biệt có nhiều mô hình hiệu quả cao về liên kết doanh nghiệp – nông dân trong sản xuất nông, lâm, thủy sản. Các mô hình đã giúp tăng năng suất cây trồng 30-35% đối với rau màu, 10-15% đối với lúa, tăng thu nhập của người dân tham gia dự án trên 25%; nâng cao giá trị sử dụng đất sản xuất nông nghiệp đến 133 – 500 triệu đồng/ha/năm nhờ chuyển đổi cơ cấu nuôi trồng ở các mô hình liên kết sản xuất. Nông dân ở nhiều địa phương đã được hưởng lợi từ các mô hình này.

Trong số 147 mô hình của các dự án có 87 mô hình đã và đang được các địa phương nhân rộng. Các mô hình khác đang tiếp tục chuyển giao cho địa phương. Có những mô hình được nông dân nhanh chóng tiếp nhận, nhân rộng trên diện tích đến hàng nghìn ha; có dự án đã tác động thành lập thêm hàng chục hợp tác xã để liên kết với doanh nghiệp, thu hút thêm nhiều doanh nghiệp đến đầu tư trên địa bàn.

Tuy nhiên, Bộ NN&PTNT cũng cho biết Chương trình còn gặp một số hạn chế như thủ tục hành chính trong tuyển chọn, phê duyệt đề tài, dự án kéo dài và kinh phí hạn hẹp. Đến hết năm 2015 còn 49 đề tài, dự án phải triển khai thực hiện trong 2 năm chuyển tiếp 2016-2017.

Một số đề tài, dự án còn tản mạn, chưa tập trung nhiều vào các trọng tâm cấp bách xây dựng nông thôn mới. Một số kết quả nghiên cứu chất lượng chưa cao hoặc chậm được chuyển giao để sử dụng, tác động và hiệu quả đối với thực tế còn hạn chế.

Nguyên nhân Chương trình được triển khai chậm (từ 12/2013) do phải mất thời gian chờ hoàn tất các cơ sở pháp lý. Kinh phí cấp cho các nhiệm vụ cũng muộn, chính thức từ năm 2015.

Để rút kinh nghiệm và triển khai hiệu quả Chương trình trong giai đoạn 2016- 2020, Bộ NN&PTNT cho rằng cần sớm hoàn thành xây dựng các văn bản pháp quy để kịp thời triển khai thực hiện Chương trình. Việc đề xuất nhiệm vụ phải bám sát khung mục tiêu, nội dung của Chương trình, chỉ đạo của Trung ương, nhu cầu thực tế từ các địa phương. Tăng cường liên kết, phát huy vai trò của doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân tham gia các đề tài, dự án. Có phương thức thích hợp để tổ chức nông dân, trực tiếp mang lại lợi ích cho họ, thông qua đó nhân rộng có hiệu quả các mô hình. Có cơ chế lồng ghép nguồn lực của các ngành khoa học và công nghệ, các chương trình khoa học công nghệ các cấp trong cả nước phục vụ mục tiêu xây dựng nông thôn mới.