BVR&MT – Số lượng nước sông Mê Công từ thượng nguồn về đồng bằng sông Cửu Long năm 2020 giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011. Lượng phù sa bùn cát năm cũng giảm tương ứng 14 triệu tấn so với năm 2017…
Trong khuôn khổ Đại hội Tổ chức các cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) 15 diễn ra ngày từ ngày 6 đến 8/9 theo hình thức trực tuyến, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã trình bày, chia sẻ báo cáo kết quả kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Đây là một trong những nội dung quan trọng của Tuyên bố Hà Nội – sáng kiến được Việt Nam đề xuất với vai trò Chủ tịch Tổ chức các cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) nhiệm kỳ 2018-2021 (Đại hội ASOSAI 14).
486 nghìn hộ bị thiếu nước sinh hoạt
Cuộc kiểm toán được thực hiện trong bối cảnh các quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công đã và đang phải đối mặt với những thách thức, tác động tiêu cực không thể lường trước từ hiện tượng biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường cũng như việc quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước thiếu bền vững, có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hơn 65 triệu người dân trong lưu vực.
Tham gia cuộc kiểm toán có 3/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công, gồm Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, Thái Lan và Myanmar, cùng sự hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật của các chuyên gia đến từ Kiểm toán Nhà nước Malaysia, Indonesia, Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Kiểm toán và Trách nhiệm giải trình Canada (CAAF) trong suốt quá trình kiểm toán từ khâu lập kế hoạch, thực hiện và xây dựng báo cáo kiểm toán.
Theo ông Lê Tùng Lâm, Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành III, kết quả kiểm toán đã chỉ rõ những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tài nguyên nước kết hợp với các yếu tố biến đổi khí hậu, sự gia tăng của việc khai thác, sử dụng nước tại các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông Mê Công đã dẫn đến những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới Việt Nam.
Đặc biệt là ảnh hưởng đến khu vực đồng bằng sông Cửu Long – nơi sinh sống của hơn 17,3 triệu dân, cung cấp hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản, 70% sản lượng trái cây của cả nước.
Cụ thể, số lượng nước sông Mê Công từ thượng nguồn về đồng bằng sông Cửu Long năm 2020 giảm 157 tỷ m3 so với năm 2011, cùng với đó lượng phù sa bùn cát năm 2020 cũng giảm tương ứng 14 triệu tấn so với năm 2017.
Tình trạng xâm nhập mặn gây thiệt hại đến khoảng 509.804 ha diện tích cây trồng, 486 nghìn hộ bị thiếu nước sinh hoạt; 1.509.528ha đất bị suy thoái chất lượng do giảm độ phì nhiêu.
2.158 vụ sạt lở thiệt hại ước tính 1.078,9 tỷ đồng; trữ lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên sụt giảm 12.644 tấn ước tính 770 tỷ đồng; chất lượng nước tại nhiều con sông, kênh, rạch đều ghi nhận tình trạng ô nhiễm là nguyên dân dẫn đến 84.672 ca bệnh theo thống kê của ngành y tế trong giai đoạn 2016 – 2020.
Nhiều địa phương phản ánh sự suy giảm về số loài và số lượng cá thể nhiều loại sinh vật, thủy sản đặc trưng của sông Mê Công; đồng thời những bất cập này cũng góp phần dẫn đến tình trạng hàng trăm nghìn lao động phải di dời khỏi địa phương, rời bỏ các công việc truyền thống để tìm kiếm việc làm tại các thành phố, đô thị lớn.
Những kiến nghị quan trọng về hợp tác quốc tế
Kết quả kiểm toán cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công giai đoạn 2016 – 2020 tại các bộ, ngành, địa phương.
Đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khâu phối hợp giữa các nước cùng khai thác sông Mê Công để từng bước xây dựng cơ chế hiệu quả nhằm hợp tác, giám sát lẫn nhau cùng gìn giữ tài nguyên nước.
Đó là: Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai Hiệp định Mê Công 1995 cần được các quốc gia trong lưu vực xem xét, nghiên cứu khắc phục, cải thiện nhằm tăng cường hiệu quả hợp tác trong tương lai.
Hiện nay mới có 4/6 quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công đã ký kết Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995.
Chưa có đầy đủ các văn bản pháp lý làm cơ sở điều tiết các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên dòng chính và dòng nhánh (như xây dựng thủy điện, hoạt động chuyển nước…), trong khi các hoạt động phát triển thủy điện dòng nhánh tại các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mê Công quốc tế ngày càng nhiều hơn.
Thiếu các điều khoản cụ thể để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên Ủy hội sông Mê Công quốc tế trong việc sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công; thiếu chỉ tiêu, hoạt động liên quan đến đánh giá tác động môi trường …
Từ kết quả kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương trong việc tăng cường các hoạt động quản lý, giám sát hiệu quả tài nguyên nước.
Đồng thời, kiến nghị Ủy ban sông Mê Công Việt Nam chủ trì, phối hợp các bộ, ngành, địa phương liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Mê Công 1995 nghiên cứu, trao đổi, tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ đề xuất Ủy hội sông Mê Công quốc tế xây dựng các văn bản và hướng dẫn kỹ thuật về giám sát sử dụng nước trên dòng nhánh; duy trì dòng chảy tối thiểu (trên dòng chính và dòng nhánh sông Mê Công); Đề xuất xây dựng các điều khoản, chế tài cụ thể để giải quyết tranh chấp đối với các bất đồng giữa các quốc gia thành viên trong việc quản lý và sử dụng nước lưu vực Mê Công.
Thúc đẩy Ủy hội sông Mê Công quốc tế thực hiện chuyển giao các hệ thống quan trắc (thủy sản, sức khỏe hệ sinh thái, phù sa bùn cát…) và các quốc gia thành viên đưa vào vận hành hiệu quả các hệ thống này, nhằm bảo đảm cơ sở dữ liệu cho quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên toàn lưu vực sông Mê Công.
Trong giai đoạn 2016 – 2020, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm, chú trọng và có nhiều nỗ lực trong việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công, gắn với việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Cuộc kiểm toán đã ghi nhận những kết quả đạt được như hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước đã được xây dựng, ban hành tương đối đầy đủ và cụ thể. Mạng lưới quan trắc, giám sát tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước, chất lượng nguồn nước đã và đang từng bước được đầu tư, hoàn thiện.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát về tài nguyên nước, bảo vệ môi trường nước được tổ chức định kỳ, qua đó đã phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm. Tổng nguồn lực tài chính đã sử dụng cho công tác quản lý tài nguyên nước tại các đơn vị được kiểm toán khoảng 42.542 tỷ đồng và ngày càng gia tăng để phục vụ cho các hoạt động điều tra cơ bản, dự báo, đánh giá tài nguyên nước, xây dựng các hệ thống công trình thủy lợi, cấp thoát nước, phòng chống xâm nhập mặn.
Về hợp tác quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về sử dụng công bằng và hợp lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công, đặc biệt là Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995 (Hiệp định Mê Công 1995), các thủ tục trao đổi và chia sẻ thông tin số liệu cùng nhiều hoạt động khác trong khuôn khổ của Ủy hội sông Mê Công quốc tế …