BVR&MT – Paul Rosolie là nhà bảo tồn và tác giả người Mỹ. Hồi ký năm 2014 của anh mang tên Mother of God kể chi tiết về những nỗ lực của anh cùng đồng nghiệp trong việc bảo vệ một khu rừng ở Peru thông qua tổ chức nơi anh gắn bó – JungleKeepers. Trong bài viết dưới đây, Rosolie viết về trải nghiệm vô cùng bất ngờ khi giải cứu một cá thể khỉ nhện đang vật lộn trên sông. Rosolie mô tả khoảnh khắc này thực sự ấn tượng và sâu sắc. Thông qua những cuộc tiếp xúc với loài khỉ vô cùng đặc biệt, anh nhấn mạnh rằng trí thông minh, cảm xúc và sự dễ bị tổn thương của động vật hoang dã đã thúc giục chúng ta nhận ra vai trò của mình là người quản lý thế giới tự nhiên trước khi nó biến mất.
Tôi đã học nói tiếng khỉ nhện trong nhiều năm.
Là một nhà bảo tồn làm việc tại rừng mưa nhiệt đới Amazon của Peru, tôi đã dành nhiều năm cuộc đời mình trong rừng rậm. Tôi ngủ ngoài trời nhiều đêm hơn là trong nhà, vì vậy, tôi nhìn thấy khỉ nhện gần như mỗi ngày. Chúng xuất hiện và rung lắc cành cây vào tôi khi tôi đi bộ trên những con đường mòn trong rừng. Chúng trêu chọc tôi khi tôi trèo cây cùng chúng. Tôi ngạc nhiên nhìn chúng lướt, đu đưa và gần như bay qua tán cây, cái đuôi đen lớn đáng kinh ngạc đó – “chi” thứ năm có thể cầm nắm – giúp chúng bám và bật nhảy một cách dễ dàng qua tán cây rừng Amazon. Đuôi của chúng luôn neo trên một cành cây, buộc chặt, trở thành trung tâm “hệ thống an ninh” trên cao của bất kỳ con khỉ nhện nào.
Nhưng trước đó, tôi cũng đã có cơ hội được biết đến loài khỉ nhện một cách gần gũi và chân thực. Người dân ở vùng Amazon vốn ăn thịt khỉ. Vì vậy, rất nhiều lần tôi đã phải giải cứu những chú khỉ nhện con khỏi những người đốn gỗ hoặc thợ đào vàng đã giết mẹ của chúng để làm thức ăn. Những sinh vật nhỏ bé này thật bất hạnh, không khác gì những đứa trẻ mồ côi đáng yêu với đôi mắt đen tuyền, đột nhiên trở nên đơn độc trên thế giới. Nhiều lần, tôi thuyết phục những người thợ săn để tôi đưa những đứa trẻ mồ côi tới gặp chuyên gia có thể phục hồi chức năng cho chúng. Khi họ đồng ý, tôi đưa chúng đến gặp người bạn của tôi là Magali Salinas, người điều hành trung tâm phục hồi chức năng động vật có uy tín duy nhất trong khu vực, Amazon Shelter, chuyên đưa những động vật mồ côi và bị thương trở về với thiên nhiên hoang dã.

Một trong những trải nghiệm như vậy đã đưa tôi vào thế giới của loài khỉ nhện xảy ra vào năm 2019 khi tôi đang ở tại một trại khai thác vàng bất hợp pháp. Những người thợ mỏ đã bắn chết khỉ mẹ khi nó đu mình qua những cái cây. Con khỉ con nhỏ bé đã sống sót sau cú ngã. Kể từ đó, nó sống trong bụi dưới túp lều của người thợ mỏ, ngủ trong bóng tối với những con gà và chó, sợ hãi và cô đơn. Lần đầu tiên tôi nói tiếng khỉ nhện và nó dần bước ra khỏi bóng tối, ngay lập tức nhận ra âm thanh giống nòi mình – một nhịp điệu ngắt quãng “Oo-ah-ah-ah-oh-oh-Ochh!”. Tôi tiếp tục thì thầm, khỉ con bước ra khỏi màn đêm rồi trèo lên chân tôi. Khi chạm đến cổ tôi, nó cuộn đuôi quanh tôi, ôm chặt, và ôm tôi như thể mạng sống của nó phụ thuộc vào cảm giác an yên ấy. Giống như sự chạm vào của một thứ gì đó ấm áp và an toàn là câu trả lời cho một nhu cầu đau đớn còn hơn cả cơn đói. Tôi cảm thấy cục nghẹn dâng lên trong cổ họng. Tôi vuốt ve bộ lông đen của nó.
Đêm đó, khỉ con không chịu buông rời. Nó nằm trên cổ tôi khi tôi đánh răng. Nó quấn quanh tôi khi tôi cởi áo. Tôi lên giường và ngủ suốt đêm, khỉ con bám chặt lấy tôi suốt thời gian đó. Sáng hôm sau, tôi thức dậy nằm ngửa, khỉ con ngáy khe khẽ, một vài viên phân của nó đậu trên ngực tôi. Ngày hôm đó, nó vẫn giữ trạng thái ấy, không chịu nhúc nhích. Tôi làm việc của mình, đi bộ trên những con đường mòn và khám phá khu rừng – tất cả đều với một sinh vật nhỏ bé, mắt hoang dã, đen đúa đậu trên vai. Bất cứ khi nào khỉ con đói hoặc sợ hãi, tôi sẽ nghe thấy tiếng kêu nhỏ nhẹ: “Oo-oo-ah-ah-ah-achhhoo.”
Khi tôi đáp lại, nó ngồi xuống, áp tai vào da cổ tôi.

Trong nhiều năm qua, chúng tôi thuyết phục được nhiều thợ đốn gỗ và thợ đào vàng để đưa những con vật mồ côi tới gặp các chuyên gia cứu hộ. Là người sáng lập và giám đốc thực địa của Junglekeepers, một tổ chức bảo tồn của Peru bảo vệ hơn 100.000 mẫu Anh (hơn 40.468 ha), tôi và các đồng nghiệp luôn nỗ lực để có thể mang lại bình yên cho những cá thể bé nhỏ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khu bảo tồn của chúng tôi là nơi sinh sống của hàng trăm gia đình khỉ nhện cùng vô số loài bò sát, lưỡng cư, chim và động vật có vú khác như báo đốm, trăn Nam Mỹ, đại bàng Harpy, khỉ hú, mèo gấm cùng rất nhiều loài tôi có thể dễ dàng kể tên…
Nhưng sự việc tôi đang viết chỉ mới xảy ra gần đây. Và tôi không yêu cầu bạn tin tôi. Nhưng bất kỳ ai dành thời gian ở nơi hoang dã đều biết rằng khi bạn ở ngoài đó đủ lâu, bạn sẽ nhìn thấy nhiều thứ.
Trong hai mươi năm làm việc tại các khu rừng nhiệt đới trên khắp thế giới, tôi đã có nhiều khoảnh khắc bí ẩn với động vật. Tôi đã học được lý do tại sao bạn không bao giờ có thể tranh luận với một con voi và tất cả những gì về nhu cầu cảm xúc của loài thú ăn kiến khổng lồ. Tôi đã vật lộn với sức mạnh không ngừng nghỉ của những vòng xoắn của một con trăn anaconda và nhận được những bài học săn mồi mở mang tầm mắt từ một con báo mẹ. Nhưng những gì xảy ra cách đây hai tuần chắc chắn là một trong những khoảnh khắc giao tiếp trực tiếp và ấn tượng nhất với một sinh vật không phải con người mà tôi được trải nghiệm.
Sự việc xảy ra vào một buổi sáng mát mẻ tháng Hai, nằm sâu trong khu bảo tồn Junglekeepers, trên một nhánh sông Amazon, khi chúng tôi nhìn thấy một con khỉ nhện trưởng thành đang chới với giữa dòng nước.

Sáng hôm đó, tôi đi cùng một đội kiểm lâm, giám đốc và nhà khoa học của Junglekeepers. Dòng sông dữ dội và chảy xiết. Chúng tôi có thể cảm thấy nó xô đẩy và “bắt nạt” con thuyền đang chạy xuôi dòng. Bình thường, con sông này là một nhánh nhỏ ở thượng nguồn lưu vực Amazon, một động mạch khá “lười biếng” chảy qua một khu rừng bất tận. Nhưng vào tháng Hai – thời điểm cao điểm của mùa mưa – dòng nước cuộn trào với những xoáy nước cao tới bốn mươi feet (hơn 12 m), nó có thể hất tung một chiếc thuyền dài ba mươi feet (hơn 9 m) chín mươi độ và vỡ tan trên bờ. Toàn bộ cây cối, dài một trăm feet (hơn 30 m) và dày như một chiếc xe buýt trường học, lao xuống hạ lưu như những con cừu đực phá thành.
Trời càng về sáng càng lạnh. Chúng tôi đang xuôi dòng sau khi đến thăm trạm kiểm lâm xa xôi nhất. Như tôi đã đề cập, tổ chức của tôi bảo vệ hơn 100.000 mẫu Anh (hơn 40.468 ha) rừng Amazon nguyên sơ – vùng đất đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi nạn khai thác gỗ trái phép, khai thác vàng và mạng lưới đường sá ngày càng di căn đang xé nát Amazonia (rừng mưa Amazon, cách gọi theo tiếng Bồ Đào Nha). Đây là ranh giới nóng bỏng của cuộc chiến bảo vệ những vùng hoang dã nhất của Amazon.
Sáng hôm đó, tôi mặc áo mưa để giữ ấm. Nửa tỉnh nửa mê, đeo air pod, tôi hầu như không để ý khi Juan Julio Durand (chúng tôi gọi là JJ, một nhà bảo tồn bản địa và là một trong những người đồng sáng lập Junglekeepers) ngồi thẳng dậy. Anh ấy có đôi mắt của một người lớn lên ở Amazon. Anh ấy chỉ tay về phía bên kia sông.
Đó là một con khỉ nhện và tình trạng của nó không được tốt.
Vì một lý do nào đó, con khỉ nhện đã cố gắng băng qua sông ở một đoạn đặc biệt rộng và nguy hiểm. Đôi bàn tay gầy đen nhỏ bé của nó đang cố gắng vẫy vùng, đôi môi hướng lên trời, thở hổn hển khi dòng nước cố kéo tụt nó xuống.
JJ ra lệnh nhanh cho người lái thuyền, và chúng tôi quay về phía nó, tiến vào thật nhanh. Không có nhiều thời gian để suy nghĩ.
“Paul, anh nên giúp nó,” JJ nói.
Tôi nhìn anh ấy. Thật sao?
“Đi nhanh lên! Nó sắp chết đuối rồi!”
Tôi cởi áo khoác, kiểm tra túi, cầm mái chèo và lao xuống nước.

Phần còn lại là bản năng. Sức mạnh của dòng sông áp đảo, cuốn tôi vào một dòng nước khiến bạn có thể hình dung đến cái chết của mình. Một loại tàn bạo của thủy lực không đùa được có thể bóp nghẹt và nhấn chìm ngay cả những người bơi lội kinh nghiệm nhất. Vì vậy, tôi đã không lãng phí thời gian.
Thật thú vị khi một vài âm thanh lại có tác động sâu sắc đến khỉ nhện như vậy. Nó hiểu. Nó biết tôi muốn giúp đỡ. Tôi cho rằng nó giống như việc được nghe lại ngôn ngữ của chính mình sau nhiều tuần ở một đất nước xa lạ – cảm giác vừa an ủi, quen thuộc.
Nó nhìn thẳng vào mắt tôi, có vẻ bình tĩnh và chấp nhận sự giúp đỡ mà tôi đưa ra. Sau đó, nó bám vào mái chèo, cho phép tôi nhấc lên khỏi mặt nước. Nó cảm thấy thoải mái hơn nhiều khi treo mình bằng đuôi và tay, dù vẫn thi thoảng liếc nhìn khi tôi bế nó đến bờ sông. Nó chạy vụt vào rừng rậm, để lại tôi thở hổn hển và đầy rẫy sự kinh ngạc với những gì vừa diễn ra dù chỉ trong chốc lát.
Thường thì mọi chuyện ít diễn tiến như vậy. Hầu hết thời gian, các loài động vật đều chạy trốn khỏi chúng ta, như chúng nên làm. Chúng ta là thế lực thống trị hành tinh này, là kẻ săn mồi đỉnh cao, một loài có xu hướng hủy hoại mọi thứ.
Tuy nhiên, có những điều kỳ diệu mà con người khó có thể chạm tới, chúng ẩn trong ánh sáng của đôi mắt sói đồng cỏ trong đêm lạnh đầy sao hay niềm an ủi sâu sắc khi phát hiện những con cá giữa những tảng đá cổ xưa trên sông hoặc đôi khi đứng hình trước một con chim ruồi dừng lại ngang tầm mắt để mắng bạn tránh xa tổ của chúng rồi cảm giác mê hoặc đến lặng người khi ngắm nhìn những con tắc kè săn bướm đêm trong ánh sáng của ngọn đèn trước hiên nhà.

Tôi có thể đọc vanh vách các số liệu thống kê và con số. Tôi có thể nhắc nhở mọi người, bằng giọng nói lớn và hoảng loạn, rằng Báo cáo Sức sống Hành tinh của WWF cho thấy chúng ta đã mất 70% động vật hoang dã trên địa cầu chỉ trong vài thập kỷ qua. Tôi có thể đưa ra cảnh báo khẩn cấp về sự tàn phá của các khu rừng nhiệt đới, các vụ cháy ở Amazonia và sự tiến triển không ngừng của các con đường vào vùng hoang dã. Rốt cuộc, tôi vẫn thấy điều đó hàng ngày. Tôi có thể nhắc nhở bạn rằng khi chúng ta san phẳng các khu rừng, đập sông và đào đường cao tốc xuyên qua vùng hoang dã, điều đó không chỉ xóa sổ cảnh quan mà còn xóa sổ cả sinh mạng. Toàn bộ thế giới bị mất đối với động vật hoang dã. Nỗi đau khổ là rất lớn, riêng lẻ và không thể đong đếm được.
Nhưng tôi sẽ không làm thế. Không phải ở đây.
Bởi vì nếu bạn đang đọc bài này thì bạn đã biết rồi.
Bạn biết chúng đặc biệt như thế nào. Thông minh hơn, giàu cảm xúc hơn và gắn kết hơn chúng ta nghĩ. Bạn biết một cái cây đơn lẻ có thể thiêng liêng như thế nào. Rằng lớp vỏ mỏng manh của một quả trứng chim nắm giữ tương lai của một khu rừng. Và nếu bạn thực sự nhìn thế giới qua lăng kính sinh thái thì bạn hiểu rằng: chúng ta là những người bảo vệ. Người giám hộ. Người giữ gìn. Đó là công việc của chúng ta.
Và thế giới hoang dã sẽ phát triển mạnh mẽ, như nó vẫn luôn như vậy – miễn là chúng ta không phá hủy nó. Miễn là chúng ta không đốt, săn bắt hoặc đẩy những sinh vật này đến bờ vực tuyệt chủng. Miễn là chúng ta không xóa chúng khỏi thực tế.
Sự thật giữa những cái cây là mọi con mắt đều nói cùng một ngôn ngữ.
Và nếu các loài động vật có thể nói, chúng sẽ không đòi hỏi nhiều. Có lẽ chỉ để nhắc nhở chúng ta rằng chúng đã ở đây từ rất lâu trước khi chúng ta xuất hiện – vận chuyển phấn hoa, vận chuyển hạt giống, định hình hệ sinh thái mà chúng ta phụ thuộc vào để sống.
Và có lẽ, chỉ có lẽ thôi, chúng sẽ nhắc nhở chúng ta rằng bây giờ, hơn bao giờ hết, chúng cần chúng ta ở bên.

MP (Theo Mongabay)